Từ nhỏ, tôi đã sống trong những ngôi nhà cổ đen nhoáy và vàng ruộm toàn chữ Nho. Có khi những “đại tự”, nghiêm ngắn, khảm xà cừ hoặc sơn son thếp vàng trên hoành phi, câu đối; có khi, chữ cuồng thảo (viết tháu, như múa) hết cỡ trên cái màu nâu giấy bản, dán trên vách gỗ cũ mọt, phá cách – gợi cảm đến xôn xao. Mùi mực Tàu thơm nhẹ, nghiên đá cẩm thạch cổ đặt trên chiếc bàn bằng gỗ gụ nặng như sắt, bút lông mèo các loại xếp trong ống tre đen bóng. Tất cả những thứ đó, từ nhiều đời, đã ít nhiều như là biểu tượng của cửa Khổng sân Trình, của tinh thần hiếu học và dòng dõi khoa bảng. Mực Tàu giấy bản luôn gợi cho người ta cảm giác thiêng liêng trong cái cõi chữ của Thánh hiền, vừa rất xưa mà vừa chẳng cũ chút nào.
Công nghệ làm mực Nho (thường gọi là mực Tàu), từ lâu lắm, vẫn được truyền tụng là bí quyết “chém cột nhà thề độc” để làm giàu của một nhóm người ngoại quốc. Không ai biết, những thỏi mực quá thân thuộc, thơm nhẹ, kỳ bí, biến ảo “quyền năng” đến mức có thể biến anh khóa nghèo thành ông Nghè ông Cống kia được làm bằng gì và làm như thế nào. Vừa rồi, lần theo ghi chép của một cuốn sách cổ, tôi đã có mặt ở làng Tư Thế (xã Trí Quả, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), nơi có truyền thống làm mực Tàu, chế tác bút lông – người thật, việc thật, với những câu chuyện lý thú tới mức sững sờ. Sững sờ đến mức, muốn táo gan làm một bản kiến nghị: xin hãy tổ chức trình diễn và khôi phục nghề cổ chữ nghĩa này; nếu làm được, thì hữu ý, hữu tình và hữu ích xiết bao.Mực Tàu và ông tổ nghề người Việt
Làng Tư Thế, nay đã có không ít nhà ống xen lẫn các dãy nhà cổ tối om. Dưới sức nặng cổ kính của cái mùi nhà làm toàn bằng gỗ hàng trăm năm tuổi, cùng ngói âm dương cũ càng “lớp sau đè lớp trước”, tôi nhận ra mùi mực Tàu giấy bản, mùi hoành phi câu đối của tuổi thơ mình. Của hàng ngàn năm lịch sử dân tộc. Trong rất nhiều cái không giống nhau của bút sắt và bút lông, tôi thấy người chữ nghĩa của thời bút sắt họ hồn nhiên hơn bây giờ nhiều lắm, rất rất nhiều cụ cứ nghĩ ra thơ văn là mài mực, quệt bút lông mèo; và: “Viết vào giấy dán ngay lên cột/ hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay (Rằng hay thì thật là hay/ Không hay sao lại đỗ ngay tú tài – thơ Tú Xương). Bất kể bu nó bảo “dốt” hay bảo “hay” (không dốt), cái anh đồ anh khóa hồn nhiên kia thật đáng yêu. Ít ra thì “cụ” đã để cho đời sau được những bức thư họa, những dòng chữ “cuồng thảo” hữu tình. Có cái gì thân gần, như là hơi thở và nhân tính của mình đã phả vào trong nếp cũ càng nơi đồ vật từ lâu lắm, nay quay về “ta lại gặp ta”. Nếp nhà cổ, câu đối hoành phi cũ luôn là chốn đi về, là bệ phóng cho nhiều người ở nhiều đời là vì thế.
Nếu tính từ cái thời tổ tông loài người sinh ra chữ viết, ban đầu vọc vạch viết vẽ vào vách đá động sâu thuở “ăn hang ở lỗ”, rồi vịn da cây mà viết, rồi bắt vị rùa già về khắc chữ muôn thuở vào mai “cụ”; lại đến cái ngày bút lông bút sắt, bút bi, bút… bàn phím. Cái thời của thế kỷ 21, đám trẻ quên mất cách cầm bút vì bàn phím quá văn minh. Vì cả nền văn minh ngón cái (của điện thoại di động) đang thống trị. Song, ngẫm lại dài dặc lịch sử các loại bút giấy kia, có lẽ, mực Nho, chữ Nho, giấy Nho (giấy bản) là một cái thời quá rực rỡ, không thể nào quên (và đang có xu thế nhen nhóm trở lại) trong văn hóa của người Việt Nam nói riêng và người Phương Đông nói chung. Nay, chữ Nho (chữ Hán) cũ và mới viết vẫn treo trong nhiều căn nhà, trụ sở, cơ quan, từ Hán Việt vẫn chiếm tỷ lệ quá lớn trong ngôn ngữ đời sống và văn bản của chúng ta. Đấy là chưa kể đến các nhóm người hằng ngày vẫn “quẳng bút chì đi vớ lấy bút lông”, như sinh viên Hán Nôm, các chuyên gia Hán Nôm (ở Thủ đô, có cả Viện nghiên cứu Hán Nôm); có hàng trăm câu lạc bộ thư pháp, có hàng nghìn hàng vạn cụ đồ vẫn ngày ngày sống trong cõi của “mực Tàu giấy bản” ở khắp hang cùng ngõ hẻm (đặc biệt là khi Tết đến xuân về). Giữa bối cảnh đó, mới thấy làng nghề làm mực Nho, bút lông phục vụ các sỹ tử “lai kinh ứng thí” ở Tư Thế đã từng rộn rã, tấp nập tới mức nào; mới thấy, việc phục dựng làng nghề chưa hẳn đã bị mai một này là rất có ý nghĩa. Một việc mà Bảo tàng Dân tộc học, với “truyền thống” đưa nghệ nhân về trình diễn nghề và văn hóa tộc người, văn hóa nhiều vùng miền của mình, nên gấp rút thực hiện.
Theo Từ điển Tiếng Việt, thì mực Tàu (hay còn gọi là mực Tầu), là một loại mực màu đen, đã được sử dụng rộng rãi trong quá khứ để viết, in và vẽ. Trong ngôn ngữ tiếng Anh, người ta gọi mực Tàu là Indian Ink hay India Ink (nghĩa là mực Ấn Độ, lý do đơn giản, là vì người Anh họ biết đến loại mực này từ người Ấn Độ). Song, từ điển cũng nhấn mạnh, nguồn gốc chính xác của loại mực này là từ đâu, thì cũng chưa ai dám kết luận. Các chuyên luận sớm nhất về nghệ thuật có nói đến mực Tàu đã được người Trung Quốc và Ai Cập cổ đại điều chế ra. Nền tảng của mực này là chất màu cacbon đen (muội than hay bồ hóng ở dạng cực mịn) pha trong chất keo lỏng hay các môi trường gắn kết khác. Ở châu Âu, người ta biết đến mực Tàu khá muộn. Có lần, trước thế kỷ 12, Eraclius, trong cuốn “De Coloribus et Artibus Romanorum” của mình, cũng đã trình bày một tập hợp các cách chế tạo một vài loại mực cacbon, bao gồm cả loại tương tự như mực Tàu của Trung Quốc, được làm từ muội than của nhựa hoặc gỗ bị đốt cháy. Các loại gỗ khác nhau sẽ tạo ra các loại mực có tông màu khác nhau đáng kể.
Định nghĩa kể trên hầu như trùng khít với đặc trưng, công dụng cũng như quy trình sản xuất loại mực Tàu ở làng Tư Thế mà người viết bài viết này đã khảo sát. Rất nhiều nghệ nhân trực tiếp sản xuất mực ở Tàu Tư Thế còn sống, rất minh mẫn, dẫu rằng mẻ mực thơm cuối cùng được ra lò ở Tư Thế, cách nay đã hơn nửa thế kỷ.
Nhà văn Phạm Thuận Thành là một người giỏi Hán học, mê thư pháp, thích đọc chữ của tiền nhân ở khắp các đình chùa miếu mạo, người mê văn hóa vùng Thuận Thành xứ Kinh Bắc đến độ hễ viết được chữ nào cho đời, anh đều lấy tên quê hương Thuận Thành làm bút hiệu, ký ở dưới mỗi tác phẩm (Phạm Thuận Thành). Một ngày, đi điền dã ở xã Trí Quả, anh Thành đã gặp được đôi vợ chồng già, bà Phạm Thị Mơ và ông Ngô Quang Đãi, nghe kể về cái nghề làm mực Tàu, rất kỳ lạ, sinh động đến giật mình. Về giở lại sách cũ, thấy trong cuốn “Kinh Bắc phong thổ ký” cũng chép rất cẩn thận về nghề làm mực Tàu ở Tư Thế. Đặc biệt, với tư cách là Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh, TS Trần Đình Luyện, cách đây chưa lâu, cũng có công trình nghiên cứu về làng nghề Kinh Bắc, trong đó đặc biệt tâm đắc với nghề làm mực Tàu, làm bút lông phục vụ sĩ tử “lai kinh ứng thí” (cũng như các bậc quan viên, các ngài thanh cao chữ nghĩa nói chung) ở làng Tư Thế. Ông Luyện còn tỉ mỉ trích cả sách “Phong thổ Bắc Hà thời Lê” (Ty Văn hóa Hà Bắc, ấn hành năm 1971), ghi rõ: nghề “nấu mực, làm bút” của Tư Thế (trước đây làng Tư Thế còn có tên cổ là Vĩnh Thế). Một bằng chứng rất cụ thể nữa là các dụng cụ của nghề làm mực Tàu, chủ nhân của các lò nấu mực nổi tiếng, cung cấp mực cho cả Kinh thành Thăng Long xưa và nhiều địa phương khác vẫn còn đầy đủ. Nhiều nghệ nhân vẫn sống, minh mẫn. Người Tư Thế và người cả vùng Thuận Thành, ngày nay, ẫn còn lưu truyền câu “cửa miệng” ca ngợi những cái “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” của mình: “Tư Thế bút, mực làm giàu; Trà Lâm mổ lợn; Uốn câu làng Giàn”. Tư Thế làm bút lông, nấu mực Tàu trở nên giàu có, cũng như làng Giàn có nghề uốn lưỡi câu cho người ta câu bể câu sông; làng Trà Lâm chuyên nghề hóa kiếp cho các chú ỉn (lợn).
Theo một tư liệu đã được Tạp chí Xưa và Nay của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam công bố, thì người được coi là ông tổ nghề nấu mực Tàu, làm bút lông thịnh phát ở Tư Thế, chính là Hoàng Giáp Đỗ Văn Hiến (đỗ năm 1502), là người Kinh Bắc, đi sứ bên Trung Hoa, có học được nghề bút mực, đem về truyền dạy cho dân làng. Ngài làm quan đến chức Thượng thư, khi mất được phong làm Tổ nghề. Nghề bút mực rực rỡ được hơn 400 năm, đến cái thời “quẳng bút lông đi viết bút chì”, thì… “nào có ra gì cái chữ Nho/ ông Nghè ông Cống cũng nằm co”. Nghề nấu mực Tàu, từ bấy chỉ còn trong câu ca, sử sách.
Tứ thời nhục nhằn, nhọ nhem bởi chữ Thánh hiền
Công nghệ làm mực Tàu không phức tạp, nhưng cái cực kỳ khó là tay nghề, kỹ xảo đốt nhựa thông với mùn cưa, ngào với keo da trâu bò để “chế tác” nên những thoi mực thơm như… phấn sáp, viết – vẽ – in nên những thứ hình, thứ chữ, thứ văn hay chữ tốt làm ma mị lòng người, làm nên sức mạnh “đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”, làm nên cái chọc trời khuấy nước của văn bút.
Bà Phạm Thị Mơ, răng nhuộm đen nhánh hạt na, cười đúng phóc cái “mùa thu tỏa nắng” mà thi sỹ Hoàng Cầm đã viết cho cô gái bên bờ sông Đuống quê bà Mơ. Bà cười bình yên, thở hắt: cái nghề “phải gió” ấy nó làm tôi khổ cả một đời, có cái gì hay mà cháu cứ đi tìm hiểu ấy “nhẩy”, đến cả Sở Văn hóa Bắc Ninh người ta cũng về hỏi. Têm trầu, quết vôi, nhai, nhá, đủng đỉnh, hiền từ, bà Mơ nhiều năm sản xuất mực Tàu nhưng vẫn chửa… biết chữ. Cũng chả luận được một chữ Nho nào trên đời. Cũng không coi nghề của mình là cái ban công, cái vỉa hè, hay cái hậu trường, cánh gà gì của nghề chữ nghĩa, của cửa Khổng sân Trình. Đơn giản, với bà, nấu mực là công việc lao tâm lao lực. Đơn giản như thể việc bà được bố mẹ gả đi làm dâu nhà ông Đãi (chồng bà), nó cũng có đầu mày cuối mắt gì đâu, có yêu iếc gì đâu, lấy con dâu về để nhà bố mẹ chồng có thêm… người làm thôi mà. Chăn trâu, cắt cỏ, gánh phân, nấu mực, làm bút, lúc ấy bà Mơ mới chỉ “nữ thập tam”, bước sang tuổi 13, chửa chắc đã tư duy được rằng, làm vợ là… phải làm gì với chồng. Hàng xóm láng giềng, gả con cái cho nhau, cứ như không! Bà hơn ông ấy vài tuổi, ông ấy có hai bà, bà Mơ về làm dâu, mấy bận đầu tiên, “điếc” mãi, đẻ non mãi chả đậu được mống nào, bị mẹ chồng mặt nặng mày nhẹ đến điều, suýt thì “bật bãi” ấy chớ. Về làm dâu, chỉ cắm mặt vào cái nồi nấu mực Tàu, với nỗi cay đắng “không gì dễ bằng người, cũng chả có gì khó… bằng người”.
Nguyên liệu quan trọng nhất của mực Tàu là nhựa thông. Nhựa thông được bố của ông Đãi mua về từ trên mạn ngược, có khi ở rừng xanh núi đỏ Tiên Yên, Ba Chẽ; có khi ở tít mãi thượng du sông Hồng vùng Yên Bái, Lào Cai.
“Nhiều lúc tôi nghĩ, nghề nấu mực nó là cái nghề, cũng là cái nghiệp. Cái nợ”, một nghệ nhân Tư Thế thở dài. Gánh nhựa thông từ Kinh kỳ, đi dọc xứ Kinh Bắc, về đến Tư Thế, bắt đầu pha trộn. Nhựa quánh, thơm, được khuấy đều lên với mùn cưa. Cái chất quánh dẻo ấy dùng để đốt, khi cháy, thơm lựng, khét mù, rồi khói của nó bám vào các dụng cụ hứng “muội khói” (bồ hóng). Bồ hóng là nguyên liệu chính để pha chế với keo da trâu bò mà thành mực Thánh. Mỗi công đoạn cháy, mỗi thứ bồ hóng hứng được, sẽ chế thành một thứ mực khác nhau, sử dụng trong những công việc khác nhau: như viết, vẽ, in ấn; vẽ ông Công ông Táo, vẽ quan Địa Phủ của Hàng Mã ở làng tranh Đông Hồ; làm thếp (dát quỳ) cho các làng nghề “sơn son thếp vàng” Đồng Kỵ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét