Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2011

Tù mù – minh bạch, và “tam đại đồng đường”

Bài của Kim Dung. Cơ chế quản lý doanh nghiệp tù mù hay minh bạch, thi toán quốc tế với bài toán quốc gia, và nghề… làm quan, là những lát cắt buồn vui của Phát ngôn và Hành động tuần này mong được chia sẻ, đồng cảm và trao đổi của quý bạn đọc gần xa.

Tù mù- minh bạch và… “Tam đại đồng đường”?
Sự kiện nổi bật trong tuần này là bức tranh kinh tế- xã hội được các đại biểu Quốc hội tại phiên họp toàn thể của Ủy ban Kinh tế QH chiều 24/9 (T/p HCM) nhận xét “đang ở giai đoạn cực kỳ khó khăn”. Còn chuyên gia kinh tế, TS Lê Đăng Doanh thì cho rằng “xấu nhất từ năm 1991 đến nay”.
Ngày 23/9, VnEconomy có bài viết dưới đầu đề: “Kinh tế vĩ mô bất ổn đến mức nào?”. Đặt câu hỏi vậy, nhưng bài viết đã là câu trả lời khi đưa ra hiện trạng các doanh nghiệp Nhà nước- đứa con trưởng của nền kinh tế đang “ốm đau”. Cũng là đánh giá của TS Trần Đình Thiên (Viện trưởng Viện Kinh tế VN):
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) có thể lỗ 11.669 tỷ đồng (2010 lỗ 23.647 tỷ), Tổng công ty Xăng dầu (Petrolimex): 1.200 tỷ đồng. Tập đoàn Công nghiệp và Tàu thủy (Vinashin): 3.092 tỷ; Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines): 613 tỷ đồng… Thiếu vốn đầu tư ngành chính nhưng đầu tư ngoài ngành hơn 22.590 tỷ. Lĩnh vực được chuộng nhất là tài chính, ngân hàng, bảo hiểm với 13 đơn vị, tổng vốn hơn 10.700 tỷ…”
Tức là vốn đầu tư ngành chính của các DNNN thì lỗ, nhưng vốn đầu tư các ngành phụ, mang tính chất mì ăn liền, nhiều rủi ro và mất an toàn, lại khá lớn. Nói một cách dân dã, tiền chi tiêu cho “bồ” của đứa con trưởng này không ít. Hiệu quả ra sao?
Nhìn toàn cảnh, người ta dễ dàng nhận thấy lạm phát tăng, tăng trưởng giảm, bội chi ngân sách, thâm hụt thương mại, giá trị đồng tiền ViệtNamgiảm…. Đương nhiên, niềm tin của người dân vào sự kinh doanh và điều hành của các DNNN cũng giảm theo.
Các chuyên gia cũng đưa ra nhiều giải pháp, nhưng người viết bài rất tâm đắc với nhận định của TS Lê Đăng Doanh rằng, đặc trưng của nền kinh tế hiện nay có nhiều bệnh, mà nguồn gốc sâu xa gắn liền với thể chế kinh tế, chính sách của Nhà nước. Để khắc phục các căn bệnh đó, không thể không cải cách bộ máy quản lý của Nhà nước, các chính sách kinh tế.
Nhận định này không mới, nhưng rất bản chất, phản ánh rõ trong những bất ổn của nền kinh tế hiện nay. Và nó không chỉ phản ánh ở kinh tế, mà còn ở cả những mảng xã hội như giáo dục, y tế, văn hóa…
Vì sao? Vì tuy đổi mới cơ chế quản lý kinh tế- xã hội đã hơn 20 năm, nhưng ai dám bảo đảm tư duy của con người trong điều hành đã thật sự mới, thoát được thói quen của một cơ chế bao cấp xin- cho vốn ăn sâu trong tiềm thức, từ cả lý luận lẫn thực tiễn?
Sự minh bạch thể hiện trong con số lỗ hàng nghìn tỷ đồng, phung phí biết bao mồ hôi nước mắt của dân
Nhưng sự tù mù vẫn còn nằm ở tư duy, ở cung cách quản lý và điều hành các cấp, lúc kiểu thị trường, lúc kiểu bao cấp, rất khó cho cả 2 phía doanh nghiệp và cho người dân. Rút cục, sẽ luôn có một nhóm lợi ích hưởng lợi
Trước đó, ngày 19/9. Diễn đàn Kinh tế VN có bài “Quản lý thì đừng sở hữu”, một bài viết rất đáng suy ngẫm về hiện trạng cơ chế quản lý các DNNN hiện nay.
Kinh doanh xăng dầu có lỗ thực?
Trong thông điệp đầu nhiệm kỳ mới 2011-2016, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu đổi mới cơ chế quyền chủ sở hữu Nhà nước đối với DNNN theo hướng, cơ quan hoạch định chính sách không đồng thời thực hiện chức năng chủ sở hữu DN. Thực chất là tách chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng chủ sở hữu DN, tránh hiện tượng quản lý theo kiểu Nhà nước “vừa đá bóng, vừa thổi còi”. Luật DN cũng quy định rõ nguyên tắc này.
Để bảo đảm luật định đưa vào cuộc sống, Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước đã ra đời để thi hành quyền chủ sở hữu một cách chuyên nghiệp, minh bạch và hiệu quả nhất.
Thế nhưng, giữa luật và thực tiễn quả là bao giờ cũng có một khoảng cách khá xa. Vì “Mọi lý thuyết đều mầu xám. Chỉ cây đời mãi mãi xanh tươi”. Tiếc thay, ở đây thực tiễn cũng… xam xám nốt. Bởi cho đến giờ, Tổng Công ty (SCIC) vẫn than vãn, riêng khâu đầu tiên- chuyển vốn về để quản lý đã trắc trở, rất khó khăn. Việc đổi mới cung cách quản lý DNNN rất trì trệ, thì hiệu quả hoạt động và chất lượng DNNN cũng rất ì ạch.
Thực tiễn này khiến người viết bài đặt 3 câu hỏi:
  • Chúng ta đang quá “hổng” mảng lý luận mang tính nền tảng, định hướng cho kinh tế thị trường?
  • Tư duy quản lý kinh tế kiểu bao cấp xin- cho vẫn ngự trị, luồn lách ngay trong cung cách điều hành quản lý Nhà nước?
  • Lợi ích nhóm chi phối khéo léo?
Cả 3 yếu tố này đều có quan hệ ràng buộc và là nguyên nhân của thực trạng kinh tế bất ổn hiện nay.
Nhưng nhiều chuyên gia kinh tế đặt vấn đề lợi ích nhóm nhiều hơn. Cứ nhìn bức tranh kinh tế thị trường hiện tại sẽ thấy rất rõ.
Bên cạnh DNNN có DN cổ phần hóa, DN tư nhân. Bên cạnh DN trong nước, có DN liên doanh vốn nước ngoài. Bên cạnh DN lớn, có doanh nghiệp vừa và nhỏ…
Vậy nhưng nếu các DN vừa và nhỏ loay hoay chống đỡ cơn bão lạm phát, tìm vốn, tìm đầu ra cho sản phẩm, thì các DN lớn lại luôn “làm mình, làm mẩy”, hoặc có thua lỗ “Nhà nước vẫn chìa tay” – theo cách nói của các đại biểu QH tại cuộc thảo luận sáng 4/8 (Kỳ họp QH khóa XIII) về tình hình kinh tế – xã hội.
Đến độ có đại biểu nêu: “DNNN cần huy động vốn thì báo lãi, cần tăng giá lại báo lỗ… Vậy bản chất kinh doanh lãi hay lỗ, lãi thật hay giả, lỗ thật hay giả?”.
Điều đó, tạo nên sự bất bình đẳng giữa các DN, chứ không phải tài năng hơn kém giữa họ.
Ngay cả các chuyên gia kinh tế nước ngoài của Ngân hàng Thế giới (WB) cũng tư vấn, thúc giục phải tiếp tục cải cách khu vực kinh tế này.
Giật mình, quốc gia đang tiến tới hội nhập văn minh, vậy nhưng cách điều hành và quản lý kinh tế của chúng ta lại “Tam đại đồng đường” kiểu … “Hai lúa”! Đứa con trưởng- DNNN có kém cỏi, làm thiệt hại Nhà nước đến mấy vẫn được ưu ái, yêu chiều, bởi nó là cây gậy?
Hay bởi vị thế và cả những khuyết tật của nó đang tạo ra lợi ích của không ít người?
Thi toán quốc tế và bài toán quốc gia
Đỉnh điểm của những bất ổn trong cơ chế quản lý kinh tế- khiến các DNNN làm mưa làm gió, được đánh dấu bằng cuộc khẩu chiến hiếm có giữa Bộ Tài chính và Bộ Công thương, cùng DN xăng dầu lớn nhất- Petrolimex, tại hội thảo “Điều hành giá xăng dầu theo cơ chế thị trường ở VN hiện nay” (ngày 20/9 tại Hà Nội).
Có lẽ trước áp lực dư luận xã hội, 2 Bộ- Tài chính và Công thương mới đây đã trần tình trên báo chí rằng, không có bất đồng trong điều hành giá xăng dầu. Nhưng bản chất của chuyện khẩu chiến tại hội thảo vừa qua vẫn là… không đồng tình với nhau về giá xăng, giữa 2 bộ, và các DN trực thuộc Bộ Công thương.
Bộ trưởng Vương Đình Huệ. Ảnh: Thế Dũng.
Một bên dọa bỏ cuộc không kinh doanh và một bên…không hề sợ, với tuyên bố sắc như móng tay nhọn bóc vỏ quýt dày: “Nếu doanh nghiệp nào không làm được thì rút lui. Kể cả Petrolimex, nếu không làm được chúng tôi sẵn sàng cho giải tán để lập tổng công ty khác. Nhà nước không dọa ai và cũng không ai dọa được Nhà nước”. Phải được chiều chuộng, ưu ái đến thế nào thì một DN mới dám dọa cả Nhà nước?
Xét cho cùng, nó là hệ lụy của một nền kinh tế thị trường nhưng không có cạnh tranh?
Thế nên người viết bài cho rằng, sẽ không thể có khẩu chiến về giá xăng tại hội thảo, nếu như trong thực tế, xăng dầu-  lĩnh vực cốt tử của quốc gia, không chỉ do 3 DNNN lớn-  Petrolimex, Saigon Petro và PVOil- độc quyền, chiếm tới 80-90% thị phần. Chỉ vì thế độc quyền, và chưa có thị trường cạnh tranh, các DNNN thả sức với dân:”Bắt cởi trần phải cởi trần/ Cho may ô mới được phần may ô”
Sẽ không thể có khẩu chiến, nếu như sự giải trình lỗ, lãi của  DNNN lớn như Petrolimex không có sự tù mù kỳ lạ và khó hiểu. Liên tục kêu lỗ, nhưng khi để trở thành một công ty cổ phần, trong bản cáo bạch tài chính thu hút các nhà đầu tư, người ta lại thấy Petrolimex công bố liên tục lãi. Năm 2008: Hơn 900 tỉ đồng, năm 2009: Gần 3,000 tỉ đồng, năm 2010: Lãi 81 tỉ đồng, và năm 2011: Dự kiến lãi khoảng 600 tỉ đồng.
Hóa ra kinh doanh lỗ, lãi phụ thuộc vào… “cái lưỡi”, không phụ thuộc vào lợi nhuận thực chất.
Đến người dân thường cũng không thể tin vào cách tính kiểu này, chưa nói đến Bộ trưởng Tài chính, một người có thâm niên và kinh nghiệm trong kiểm toán.
Sẽ không thể có khẩu chiến, nếu như không có câu trả lời tù mù của đại diện Petrolimex, về câu hỏi xăng lỗ bao nhiêu, dầu lỗ bao nhiêu? Đây là 2 mặt hàng chủ đạo của họ, mà với cách tính thiếu khoa học- gói trọn tổng doanh thu của tất cả các mặt hàng chủ đạo và phụ trợ, trừ đi tổng chi phí để tạo ra một kết quả lỗ chung của DN, Bộ trưởng Tài chính phải nghi ngờ Ban Quản trị của Tổng Công ty có vấn đề.
Sự can thiệp và không đồng ý tăng giá xăng của Bộ trưởng Tài  chính không chỉ chứng tỏ ông đứng về phía lợi ích của hơn 80 triệu dân. Mà ông còn phải làm nhiệm vụ của chính Bộ mình- gắng kiềm tỏa lạm phát đang lồng lộn phi mã. Nếu giá xăng lên, sẽ kéo theo rất nhiều mặt hàng khác tăng theo, có thể con ngựa lạm phát đứt dây cương, thật nguy hiểm.
Duy nhất có một người, biết làm cho bạn đọc… cười vì cái sự hơi ít văn hóa. Đó là ông N.L.A, Vụ phó Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công thương). Có vẻ như ông này muốn “xả thân” bênh vực các sếp của mình, bênh vực chủ trương đòi tăng giá xăng của các DN đến tận cùng, khi mỉa mai: “Tôi nghe tin cứ nghĩ Bộ Tài chính bị làm sao“.
Và để mọi người biết về trí thông minh của mình, ông khoe mẽ: “Tôi không giỏi nhưng cũng đi thi toán quốc tế…”. Hơi buồn cười cho ông vì chả hiểu làm sao, mới đây Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng GD (Bộ GD) cho biết năm 1982, không có học sinh nào đi thi Olimpic toán Quốc tế có tên như ông (chỉ có 4 người: Lê Tự Quốc Thắng, Trần Minh, Ngô Phú Thanh và Nguyễn Hữu Đoàn).
Cũng có thể ông mới ở trong đội tuyển chọn thì… bị loại từ trong nước.
Đến nước này, thì bạn đọc lại bảo: “Ông Vụ phó này làm sao í nhỉ?”. Chả trách Bộ trưởng Vương Đình Huệ dạy lại ngay tại hội thảo: “Dù học nhiều nhưng cần có kiến thức thực tế”. Chí lý!
Dẫu sao, người viết bài vẫn tin ông là người thông minh, tuy “nổ” không phải chỗ. Nếu từng đi thi toán quốc tế, xin ông thử giải bài toán cấp quốc gia và… cấp DN:
Vì sao giá cả, trong đó có giá xăng tăng vùn vụt đến chóng mặt, còn giá trị văn hóa, con người, giáo dục, giá trị đạo lý xã hội, giá trị niềm tin lại…tụt nhanh đến thế?
Vì sao người dân không chỉ hoài nghi về cách tính giá xăng tù mù, thiếu minh bạch của DN, người dân còn hoài nghi về “lợi ích” được mất xung quanh chuyện bảo vệ cho việc tăng giá này?
Vì sao Bộ Công thương cũng không thể kiểm soát được hiện tượng các cửa hàng bán xăng luôn ăn cắp, ăn bớt xăng của khách hàng. Giá đã cao, khách hàng lại bị bòn rút, rút cục, họ bị thua thiệt tới 2 lần?
Dù vậy, chuyện khẩu chiến giữa 2 bộ và các DNNN xăng dầu có thể sẽ qua đi. Nhưng nếu sự độc quyền kinh doanh của các DN lớn vẫn tồn tại, nếu cơ chế quản lý chồng chéo đầy bất ổn vẫn hiển nhiên và đằng sau nó là các “con tin” của các đại gia, như cách nói của một nhà báo có tên tuổi, thì đương nhiên sẽ có những Bộ trưởng như ông Vương Đình Huệ.
Nhưng có một Bộ trưởng thẳng thắn vẫn không bằng có một cơ chế quản lý phù hợp thực tiễn kinh tế xã hội, được lòng dân và thực sự vì dân.
Làm quan: “Lập danh, lập nghiệp, lập ngôn”
Có lẽ vì tâm đắc với những phát ngôn thẳng thắn của Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ, trong dàn những Bộ trưởng của Chính phủ mới, trên Vnexpress ngày 27/9 có bài viết : “Các tân Bộ trưởng đã dám thể hiện cá tính”.
Chợt nghĩ tới câu tổng kết của dân gian: “Lập danh, lập nghiệp, lập ngôn”.
Trong 3 lập ấy, lập ngôn là khó nhất. Khó vì “ngôn” phải tỉnh táo, sáng suốt, khôn ngoan, để thiên hạ “người trên trông xuống, người ta trông vào” tâm phục, khẩu phục khỏi cười chê.
Làm người có 3 cái lập ấy đã khó, làm quan còn khó đến đâu!
Đứng dưới ít người, đứng trên muôn người, có danh, có tiếng, có quyền, có lợi, làm quan quả là nghề hấp dẫn. Chả thế từ cổ chí kim, bao tấn bi hài kịch xoay quanh cái nghề đặc biệt này.
Nhưng làm quan cũng lắm khổ ải. Vinh đấy, và tủi hổ đấy! Quyền đấy, và bất tín đấy!
Có những vị quan “lập ngôn” quá dễ dãi, ngớ ngẩn, khiến thiên hạ cười chê-  IQ cao! IQ cao lẽ ra phải là sự ngợi khen, lại là sự chê cười. Tại sao?  Hay… cái nước Việt mình nó thế! (mượn lời cố GS Hoàng Ngọc Hiến)
Nhưng hãy chú ý hiện tượng này: Nếu sự “lập ngôn” của các quan chức vốn rất dè dặt, mang đặc điểm của một cơ chế lãnh đạo tập thể. Thì dường như càng ngày, sự “lập ngôn” của các quan chức càng mang đặc điểm cá tính, năng lực tư duy và trách nhiệm cá nhân của họ, nhất là với lĩnh vực dân đang bức xúc. Đó là điểm đáng mừng.
Một đặc điểm khác: Họ đều xấp xỉ 50- 51, cái tuổi đã tích lũy nhiều kinh nghiệm sống, được đào tạo bài bản, lại kinh qua nhiều nhiệm vụ từ cơ sở. Thời đại thế giới phẳng cho họ rất nhiều thông tin, và tư duy buộc phải luôn trẻ hóa, để thích ứng với bổn phận.
Bộ trưởng Đinh La Thăng. Ảnh: internet
Hãy thử nghe Bộ trưởng Giao thông Đinh La Thăng thẳng thắn: “Bộ trưởng là tư lệnh lĩnh vực ngành, phải cho tôi toàn quyền…Bộ GT sẽ tập trung giải quyết 3 khâu đột phá chiến lược. Thứ nhất, đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông.Thứ hai, tình trạng tai nạn giao thông. Thứ b, ùn tắc giao thông… Tôi cho rằng khi đất nước có đủ điều kiện mới làm đường sắt cao tốc…. Sẽ ưu tiên đầu tư đường bộ cao tốc Bắc Nam, nâng cấp đường sắt hiện có, cân đối phát triển đường quốc lộ, tỉnh lộ, giao thông nông thôn”. Những phát ngôn của ông khá ấn tượng và rõ ràng khá hợp lòng dân.
Và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình: “Sẽ đưa lãi suất về 17-19% trong vòng hai tháng kể từ ngày nhậm chức“.  Đi kèm với thông điệp mạnh mẽ về lãi suất, ông đưa ra một loạt chính sách, biện pháp mạnh tay đối với những cá nhân và tổ chức vi phạm. Kết quả, lãi suất cho vay đã bắt đầu hạ dù chưa thiết lập một mặt bằng ổn định.
Còn khi Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ không chấp nhận tăng giá xăng, lục lại phát ngôn của ông sau nhậm chức, thấy rằng ông đang thực hiện những điều đã tuyên bố: Sẽ lập lại trật tự trên thị trường xăng dầu, công khai minh bạch các khoản lỗ, lãi trong lĩnh vực vốn nhạy cảm, rất tác động tới đời sống nhân dân này.
Dĩ nhiên, mới 2 tháng trôi qua- một đoạn rất ngắn của nhiệm kỳ. Từ phát ngôn ấn tượng đến hành động ấn tượng cũng còn cần rất nhiều sự kiểm chứng của thực tiễn.
“Lập danh” đã thành. “Lập ngôn” nhiều Bộ trưởng đã có. Nhân dân đang trông chờ vào sự “lập nghiệp”- hành động cụ thể của các Bộ trưởng trong Chính phủ mới. Nhân dân vốn “nghìn mắt, nghìn tai” và nhân dân cũng luôn biết sát cánh với những Bộ trưởng biết vì nước, vì dân.
Một Bộ trưởng thực tài, thực tâm không bằng một cơ chế quản lý văn minh và minh bạch. Nhưng chắc chắn sẽ hữu hiệu hơn nữa, nếu một cơ chế quản lý văn minh, minh bạch có các Bộ trưởng thực tài, thực tâm.
Kim Dung. VNN – Tuần Việt Nam.

Thứ Tư, 28 tháng 9, 2011

5 trường hợp siêu lạm phát tồi tệ nhất trong lịch sử

Trong khi bạn đang uống một cốc cà phê, giá của nó đã kịp tăng lên gấp đôi. Chuyện này diễn ra khi lạm phát phi mã, giá cả tăng nhanh theo cấp số mũ và tiền trở nên vô giá trị chỉ trong vòng một đêm.
Dưới đây là 5 trường hợp lạm phát phi mã tồi tệ nhất từng xảy ra trong lịch sử.
5. Hy Lạp: tháng 10/1944
Tháng lạm phát cao nhất: 13.800%
Giá tăng gấp đôi sau mỗi 4,3 ngày
 
Lạm phát ở Hy Lạp bắt đầu vào tháng 10/1943 khi quân đội Đức đang chiếm đóng nước này trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Tuy nhiên, lạm phát trở nên trầm trọng nhất là vào tháng 10/1944 khi chính quyền lưu vong Hy Lạp giành lại quyền kiểm soát Athen. Giá cả đã tăng 13.800% vào thời điểm đó và tăng 1.600% vào tháng 11.
Năm 1938, trung bình người Hy Lạp giữ tiền trong khoảng 40 ngày rồi mới đem tiêu, nhưng vào ngày 10/11/1944, con số này co lại chỉ còn 4 giờ. Năm 1942, mệnh giá lớn nhất của đồng drachma Hy Lạp là 50.000, nhưng vào năm 1944, con số này là 100 nghìn tỷ. Ngày 11/11/1944, chính phủ Hy Lạp đã phải định giá lại đơn vị tiền tệ của mình và đổi đồng drachma cũ sang đồng tiền mới với tỷ lệ 50 tỷ : 1. Tuy nhiên, đại bộ phận dân chúng vẫn dùng đồng bảng Anh như một đơn vị tiền tệ không chính thức cho đến giữa năm 1945.
Nguyên nhân chính của cuộc siêu lạm phát này là chiến tranh. Cuộc chiến này đã làm Hy Lạp ngập chìm trong nợ nần, thương mại bị đình trệ và chịu 4 năm bị chiếm đóng. Năm tài chính 1939, Hy Lạp thặng dư ngân sách là 271 triệu drachma, nhưng khoản tiền này nhanh chóng chuyển thành thâm hụt 790 triệu USD vào năm 1940, chủ yếu do suy giảm thương mại và sản xuất công nghiệp thiếu nguyên liệu thô hiếm cộng với các khoản chi ngoài dự tính cho quân sự. Thâm hụt ngân sách còn gia tăng do ngân hàng trung ương Hy Lạp liên tục rút tiền, hành động này đã làm cung tiền trên thị trường tăng gấp đôi chỉ sau 2 năm.
Các nỗ lực bình ổn giá bắt đầu phát huy tác dụng từ tháng 1 đến tháng 5/1945, giá chỉ tăng 140%, nhờ nhà kinh tế học kiệt xuất Kyriakos Varvaressos. Thậm chí sang tháng 6/1945, Hy Lạp còn giảm phát tới 36,8% vào tháng 6/1945 . Tuy nhiên, kế hoạch tăng viện trợ từ nước ngoài, khôi phục sản xuất trong nước và tăng cường kiểm soát lương và giá cả thông qua việc phân phối lại của cải lại làm trầm trọng thêm tình trạng thâm hụt ngân sách của Hy Lạp, vì vậy, Varvaressos đã phải từ chức vào ngày 1/9.
Sau cuộc nội chiến 1945-1946, nước Anh đề xuất một kế hoạch bình ổn cho Hy Lạp, bao gồm tăng doanh thu từ việc bán hàng cứu trợ, điều chỉnh một số thuế suất đặc biệt, cải thiện phương pháp thu thuế và thành lập một Ủy ban tiền tệ ( gồm 3 bộ trưởng Hy Lạp, một người Anh và 1 người Mỹ) để chịu trách nhiệm các vấn đề về tài chính. Vào đầu năm 1947, giá cả được bình ổn, niềm tin người tiêu dùng được phục hồi và thu nhập người dân được nâng cao, chính thức đưa Hy Lạp thoát khỏi lạm phát phi mã.
4. Đức: tháng 10/1923
Tháng lạm phát cao nhất: 29.500%
Giá tăng gấp đôi sau mỗi: 3,7 ngày
Đồng mác Đức (papiermark) được sử dụng từ năm 1914 khi chế độ bản vị vàng bị bãi bỏ. Tỷ giá với đồng USD ban đầu ở mức 4,2 mác/USD khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Tuy nhiên, tháng 8/1923, người ta phải bỏ ra 1 triệu mác Đức để đổi USD. Và đến tháng 11/1923, con số này đã tăng lên 238 triệu mác. Đó là thời điểm xuất hiện sự rối loạn tâm lý mang tên “Zero Stroke” khi người dân Đức phải giao dịch với lượng tiền trị giá đến hàng trăm tỷ mác Đức mỗi ngày và chóng mặt với hàng dãy số 0 tưởng như bất tận.
Lạm phát cao buộc chính phủ Đức phải định giá lại đồng mác và thay đồng papiermark bằng đồng rentenmark với tỷ giá 4,2 rentenmark/USD và cắt bớt 12 số 0 trên tờ tiền papiermark. Mặc dù đồng rentenmark đã bình ổn kinh tế một cách khá hiệu quả và chính phủ cộng hòa Weimar vẫn tiếp tục tồn tại cho đến năm 1933, nhưng siêu lạm phát và những áp lực kinh tế mà nó gây ra đã góp phần cho sự nổi lên của đảng Nazi và Adolf Hitler.
Dù rất nhiều người tin rằng lạm phát phi mã ở Đức là hệ quả trực tiếp từ việc chính phủ in quá nhiều tiền để chi cho chiến tranh, nhưng nguyên nhân chính của việc này đã được hé lộ sau đó vài năm.
Năm 1914, Đức ngừng hỗ trợ cho đồng tiền nước này bằng vàng và bắt đầu đi vay để chi trả cho chiến tranh thay vì thu thuế. Năm 1919, giá cả gần như đã tăng gấp đôi và nước Đức thất trận. Thế nhưng giai đoạn 1919 - 1921, đồng tiền nước này vẫn còn tương đối ổn định so với những năm sau đó.
Khoản tiền bồi thường sau chiến tranh được quy định trong Hiệp ước Versailles buộc Đức phải trả bằng vàng hay ngoại tệ tương ứng thay vì đồng papiermark. Để mua số ngoại tệ này, chính phủ Đức đã phải sử dụng đồng papiermark được đảm bảo bằng nợ chính phủ và vì vậy đã làm tăng tốc độ phá giá đồng tiền.
Khi người Đức không thể trả được các khoản nợ, quân đội Pháp và Bỉ đã chiếm thung lũng Ruhr vào tháng 1/1923 để đòi hỏi Đức phải trả bằng hiện vật. Việc này đã gây ra rất nhiều vụ đình công và phản kháng bị động của công nhân tại đây và làm cho mọi việc trở nên tồi tệ hơn. Khi chính phủ các nước châu Âu xung đột về việc tìm ra cách tốt nhất để giải quyết tình trạng này, thì nền kinh tế Đức đã nhanh chóng suy sụp. Và chỉ trong vòng hơn 1,5 năm cả nước Đức đã chìm trong lạm phát phi mã.
3. Yugoslavia: tháng 1/1994
Tháng lạm phát cao nhất: 315.000.000%
Giá tăng gấp đôi sau mỗi: 1,4 ngày
Một trường hợp siêu lạm phát nữa đã xảy ra với đồng dinar của Yugoslavia trong khoảng thời gian 1993 – 1995. Đỉnh điểm của cuộc lạm phát này là vào tháng 1/1994 khi giá cả tăng 313 triệu phần trăm trong vòng một tháng - tương đương 64,6% mỗi ngày với giá tăng gấp đôi chỉ sau 34 giờ. Trong toàn bộ thời kỳ lạm phát, ước tính giá cả tăng khoảng 5 triệu tỷ lần.
Cuối cùng, nhiều doanh nghiệp Yugoslavia đã từ chối sử dụng đồng dinar và đồng mác Đức (DM) trở thành đơn vị tiền tệ không chính thức của nước này, ngay cả sau khi chính phủ tái định giá đồng dinar bằng việc đổi 1 triệu dinar cũ sang 1 dinar mới. Theo một nghiên cứu của giáo sư Thayer Watkins đến từ đại học bang San Jose, vào ngày 12/11/1993, 1 mác Đức = 1 triệu dinar mới. Và vào ngày 15/12, 1 mác Đức đã tương đương 3,7 tỷ dinar. Còn đến cuối tháng thì tỷ lệ này đã trở thành 1 mác Đức = 3 nghìn tỷ dinar.
Sau lần định giá thứ hai, 1 dinar “mới của mới” tương tương 1 tỷ dinar “mới của cũ” và 1 mác Đức đổi được 6.000 dinar. Ngày 17/01/1994, tỷ giá vọt lên tới 1 mác Đức = 30 triệu dinar; đến ngày 24/01, chính phủ đã phải đưa ra đồng “siêu” dinar tương đương 10 triệu dinar “mới của mới”, đây chính là lần tái định giá thứ 5.
Trong suốt giai đoạn này, chính phủ đã phải trải qua một thời kì vô cùng khó khăn khi phải duy trì cấu trúc xã hội sau hàng loạt các biện pháp kiểm soát giá cả không hiệu quả. Các cơ quan chính phủ gần như không thể hoạt động và người dân thì không chịu trả hóa đơn đúng hạn bởi họ biết tiền sẽ mất giá rất nhanh sau đó.
Nguyên nhân đằng sau lạm phát của Yugoslavia chính là từ những xung đột trong khu vực, khủng hoảng kinh tế và những chính sách quản lý kém hiệu quả của chính phủ.
Sau cuộc suy thoái mang đậm dấu ấn của những khoản vay nước ngoài khổng lồ và đình trệ xuất khẩu vào thập niên 1970, Yugoslavia đã ngập chìm trong xung đột và đấu tranh chính trị trong suốt những năm 80 và 90. Trong hai năm 1989 và 1990, sau khi nhận khoản vay từ IMF, khoảng 1.100 công ty tại đây đã bị phá sản, kéo theo hơn 600 nghìn trên tổng số 2,7 triệu lao động bị sa thải. Ngoài ra, một số công ty đã quyết định không trả lương cho công nhân trong những tháng đầu năm để tránh phá sản. Việc này đã làm ảnh hưởng đến khoảng 500 nghìn người.
Chiến tranh Yugoslav, sự tan rã và mất ổn định của chính phủ là những nguyên nhân chính gây lạm phát phi mã. Sự quản lý yếu kém của chính phủ, bao gồm cả việc nhận thức kém về các chính sách kinh tế khi cho in tiền không kiểm soát, làm thâm hụt ngân sách ngày càng trầm trọng và áp đặt giá cả làm tình hình trở nên ngày càng tồi tệ.
Chính phủ áp đặt giá cả ở mức quá thấp và người dân không thể có lợi nhuận từ việc bán nông sản, hậu quả là, họ đóng cửa hàng để bảo vệ hàng hóa của mình. Còn chính phủ thì thay vì gỡ bỏ kiểm soát giá cả, họ lại mua hàng từ nước ngoài. Nguồn cung giảm mạnh khiến giá cả nhanh chóng tăng vọt.
2. Zimbabwe: tháng 11/2008
Tháng lạm phát cao nhất: 79.600.000.000%
Giá tăng gấp đôi sau mỗi: 24,7 tiếng
Ví dụ về lần lạm phát phi mã gần đây nhất trên thế giới chính là tại Zimbabwe và đỉnh điểm là vào tháng 11/2008 khi lạm phát ở mức 79 tỷ phần trăm mỗi tháng. Dù chính phủ Zimbabwe đã ngừng công bố các số liệu thống kê chính thức về lạm phát trong những tháng tồi tệ nhất, nhưng các báo cáo đã sử dụng lý thuyết kinh tế chuẩn (sức mua ngang giá) để tính toán ra con số này.
Giá cả tăng gấp đôi chỉ sau 24 giờ. Vài ngày sau khi phát hành tờ tiền mệnh giá 100 triệu, ngân hàng trung ương phát hành tiền mệnh giá 200 triệu và giới hạn số tiền rút ra khỏi ngân hàng ở mức 500.000 tương đương 0,25 USD. Khi tờ 100 triệu được sử dụng, giá cả bắt đầu tăng chóng mặt; các báo cáo ghi lại rằng 1 chiếc bánh mì tăng từ 2 triệu lên 35 triệu chỉ sau 1 đêm. Có thời điểm, chính phủ còn tuyên bố lạm phát là bất hợp pháp và bắt tất cả giám đốc của những công ty nào dám tăng giá sản phẩm.
Tình hình tồi tệ đến mức nhiều cửa hàng đã phải từ chối nhận đồng nội tệ và coi đồng USD hay đồng rand của Nam Phi là đơn vị tiền tệ không chính thức. Lạm phát kết thúc khi ngân hàng trung ương Zimbabwe phải tái định giá đồng tiền theo đồng USD. Sàn chứng khoán cũng bị buộc phải đóng cửa theo lệnh của chính phủ.
Khi Zimbabwe giành được độc lập vào năm 1980, chính phủ nước này đã chấp nhận sử dụng đồng tiền mới với tỷ giá ban đầu so với đồng USD là 1,25 USD. Tuy nhiên, chính sự quản lý yếu kém của chính phủ Zimbabwe về sau đã gây ra cuộc lạm phát phi mã ngoài tầm kiểm soát này.
Lạm phát bắt đầu vào đầu thập niên 1990 khi tổng thống Robert Mugabe khởi động chương trình phân phối lại đất đai lấy từ nông dân gốc Âu để chia cho nông dân Zimbabwe. Việc này làm sản lượng nông nghiệp đột ngột giảm mạnh và giá cả tăng là điều tất yếu.
Đầu thế kỷ 21, Zimbabwe bước vào lạm phát phi mã và đến năm 2006, nước này đã in 21 nghìn tỷ đôla Zimbabwe để trả cho IMF. Cùng năm đó, Zimbabwe lại phải in thêm 60 nghìn tỷ đôla Zimbabwe để trả lương cho binh lính, cảnh sát và quan chức nhà nước. Năm 2007, nước này đã thiếu hụt trầm trọng nguồn lương thực thiết yếu, nhiên liệu và các thiết bị y tế. IMF ước tính lạm phát hằng tháng của Zimbabwe đã vượt mức 115 nghìn phần trăm vào cuối năm và chính phủ Zimbabwe đã phải dừng trả lương 6 tháng cho người lao động.
Tháng 4/2008, 50 triệu đôla Zimbabwe đã tương đương 1,20USD, trong khi đó, ngân hàng trung ương nước này ước tính nền kinh tế đã co lại 6% so với năm ngoái. Tháng 7/2008, tờ Los Anelges Times đưa tin chính phủ Zimbabwe đã hết sạch giấy để in tiền khi các nhà cung cấp giấy ở châu Âu tạm ngừng cấp cho Zimbabwe do lo ngại các vấn đề về nhân đạo.
1. Hungary: năm 1946
Tháng lạm phát cao nhất: 13.600.000.000.000%
Giá tăng gấp đôi sau mỗi: 15,6 tiếng
Trường hợp lạm phát phi mã tồi tệ nhất trong lịch sử thế giới từng được ghi lại là ở Hungary vào nửa đầu năm 1946. Giữa năm đó, tờ tiền mệnh giá lớn nhất ở đây là 100.000.000.000.000.000.000 pengo. Con số này năm 1944 chỉ là 1.000 pengo.
Tình hình trở nên trầm trọng đến nỗi chính phủ phải sử dụng một đơn vị tiền tệ đặc biệt được thiết kế cho trả thuế và bưu chính. Loại tiền này được điều chỉnh hằng ngày qua radio. Đồng pengo đã bị thay thế sau đó trong một lần tái định giá tiền. Người ta ước tính tại thời điểm đồng pengo được thay vào tháng 8/1946, tổng giá trị của tất cả các tờ tiền Hungary đang được lưu thông ở nước này có giá trị chỉ bằng 1/1000 USD.
Đồng pengo được đưa vào lưu thông sau khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc để bình ổn nền kinh tế và khắc phục tình trạng lạm phát. Ngành nông nghiệp của Hungary đã bị thiệt hại nặng nề sau cuộc Đại suy thoái, và các khoản nợ khổng lồ đã buộc ngân hàng trung ương nước này phải phá giá đồng tiền của mình để bù lại chi phí bằng cách nới lỏng các chính sách tài khóa và tiền tệ. Khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ, nền kinh tế của Hungary đang rất yếu kém và ngân hàng trung ương gần như thuộc quyền kiểm soát hoàn toàn của chính phủ, in tiền theo nhu cầu của ngân sách mà không có bất kì hạn chế nào.
Lạm phát khủng khiếp đến mức tiền xu gần như biến mất khỏi thị trường, ban đầu là xu bạc, rồi đến đồng và cả ni-ken nữa, vì khi ấy giá trị của kim loại làm ra chúng còn đáng giá hơn cả mệnh giá của chúng nữa. Khi chiến tranh kết thúc, chính phủ nắm toàn quyền kiểm soát việc in tiền mà không có bất kì tài sản đảm bảo nào. Khi quân đội Xô Viết đến đây, họ cũng ngay lập tức phát hành tiền riêng của mình nên nhu cầu cho đồng pengo đã giảm hẳn.
Cuối cùng, chính phủ Hungary đành phải cho ra đời đơn vị tiền tệ mới – đồng forint – có thể quy đổi trực tiếp ra vàng và ra các ngoại tệ khác. Ngày nay, đồng forint vẫn đang được lưu thông, nhưng có lẽ nó sẽ được thay bằng đồng Euro trong vài năm tới.
Hà Thu (theo CNBC)

Thuế lạm phát

Tác giả: Hùynh Thế Du
Bài đã được xuất bản.: 09/04/2011 06:00 GMT+7
Khi lạm phát xảy ra, đồng tiền sẽ mất giá. Vậy phần mất đi của người nắm giữ tiền mặt sẽ đi đâu? Câu trả lời đơn giản là vào “túi” của Nhà nước thông qua “thuế lạm phát”.
Với cùng một lượng tiền mặt như nhau nhưng khi lạm phát xảy ra, sau một thời gian người giữ tiền sẽ mua được ít hàng hóa hơn. Ví dụ, với mức giá tăng đến 17,96% trong năm 2010 và giả sử 1kg lương thực có giá 10 nghìn đồng vào đầu năm thì 100 nghìn đồng sẽ mua được 10kg, nhưng cuối năm chỉ còn 8,5kg. Tính bình quân trong năm 2010, những người giữ tiền mặt đã mất 11,75% giá trị tài sản của mình khi so với rổ hàng hóa chung của cả nền kinh tế.

Phần mất đi của người nắm giữ tiền mặt sẽ đi đâu? Câu trả lời đơn giản là vào "túi" của Nhà nước thông qua "thuế lạm phát".

Lạm phát được định nghĩa là mức tăng giá chung của nền kinh tế mà nguyên nhân chính của nó là lượng tiền tăng cao hơn lượng hàng hóa sau một thời gian. Hiểu một cách đơn giản, năm ngoái trong nền kinh tế có 100 đồng và 100 đơn vị hàng hóa thì giá cả sẽ là 1 đồng/hàng hóa. Năm nay do Chính phủ in thêm tiền nên trong nền kinh tế có thêm 10 đồng và tổng số tiền sẽ là 110 đồng. Với giả sử số hàng hóa vẫn không thay đổi thì giá của một hàng hóa sẽ là 1,1 đồng hay tăng 10%.

Bằng việc in tiền để mua hàng hóa trong nền kinh tế của mình, Nhà nước đã làm giảm giá trị (sức mua) của lượng tiền đang có. Một cách gián tiếp Nhà nước đã đánh thuế lên những người nắm giữ tiền mặt. Đây chính là thuế lạm phát.

Thuế lạm phát là thứ thuế mà hầu như nước nào cũng có, nhưng nó có tính lũy thoái mà hiểu một cách đơn giản người có thu nhập thấp hơn phải chịu mức thuế suất cao hơn.

Ví dụ một người có thu nhập 1 triệu đồng phải đóng thuế 200 nghìn chắc chắn thấp hơn số thuế 1 triệu đồng của người có thu nhập 10 triệu đồng. Tuy nhiên, trong trường hợp này, người có thu nhập thấp hơn phải chịu thuế suất gấp đôi (20% so với 10%) người có thu nhập cao. Điều này ngược với nguyên tắc công bằng dọc trong thuế khóa, người có khả năng thấp hơn phải chịu mức thuế thấp hơn.

Nguyên nhân gây ra tính lũy thoái của thuế lạm phát là do việc tăng giá trong nền kinh tế theo khuynh hướng các mặt hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm - rổ hàng hóa tiêu dùng chủ yếu của người nghèo - thường cao hơn rất nhiều so với những mặt hàng khác, nhất là những hàng hóa cao cấp - loại hàng hóa chiếm một tỷ phần chi tiêu lớn của những người khá giả hơn.

Ví dụ, nếu thu nhập của một người chủ yếu dành cho lương thực thực phẩm thì năm 2010 họ phải "đóng thuế" khoảng 17%, trong khi nếu chi cho đồ uống hay thiết bị và đồ dùng gia đình thì mức thuế chưa bằng một nửa con số nêu trên.

Tóm lại, thuế lạm phát là thứ thuế tồn tại trong hầu hết các nền kinh tế, nhưng nó có tính lũy thoái đánh vào người nghèo gây ra bất công trong xã hội nên cần phải hết sức hạn chế bằng việc kéo mức tăng giá xuống càng thấp càng tốt (thông thường là một vài phần trăm ở các nước phát triển và dưới 5% ở các nước đang phát triển).

Có một điểm cần lưu ý khác là sở dĩ bất kỳ một Chính phủ nước nào cũng có thể in tiền và công chúng sẽ sử dụng chúng là do uy tín của Chính phủ. Nói một cách khác đằng sau giá trị của đồng tiền một nước nào đó chính là uy tín của Chính phủ. Do vậy, việc in và sử dụng tiền cần phải tính toán hết sức cẩn thận.
Theo Tạp chí Tia Sáng

Thứ Ba, 27 tháng 9, 2011

Những phát ngôn gây “chấn động” nhất của Bộ trưởng Vương Đình Huệ

 

Hàng loạt những câu nói “đanh thép” và quyết đoán về điều hành xăng dầu, của người đứng đầu Bộ Tài chính, Bộ trưởng Vương Đình Huệ đã gây “chấn động” trong nhiều ngày nay trên các phương tiện đại chúng.
Ngày 20/9 vừa qua, Bộ Tài chính đã chủ trì Hội thảo “Điều hành thị trường xăng dầu ở Việt Nam”. Đến dự hội thảo có khá nhiều lãnh đạo thuộc Bộ Công Thương, doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu, đặc biệt lần đầu tiên có Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ đến dự và chủ trì.

Tại Hội thảo, một cuộc tranh luận “nảy lửa” về cơ chế điều hành xăng dầu, giữa doanh nghiệp và hai Bộ Công thương - Tài chính đã diễn ra. Đáp lại những vướng mắc và bức xúc xung quanh vấn đề quản lý và điều hành xăng dầu, Bộ trưởng Vương Đình Huệ đã đưa ra khá nhiều quyết định khá “đanh thép” và quyết đoán.

Đúng như tiêu đề của cuộc Hội thảo, trong suốt 4 tiếng, những vấn đề gai góc nhất về điều hành xăng dầu đã được đưa ra.

Theo Bộ Công Thương hiện tại các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đang lỗ khá nhiều, do cách điều hành giật cục và giá xăng dầu chưa đưa được về đúng nghĩa thị trường, tăng giảm không theo nguyên tắc. Nếu điều hành như thế này khả năng vỡ hệ thống xăng dầu là hoàn toàn có thể xảy ra.

Đặc biệt, tại Hội thảo này Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) cũng đã đưa ra những khoản lỗ không lỗ mà Tập đoàn đang phải gánh chịu.

Đáp lại những vướng mắc này, Bộ trưởng Huệ đã lập tức đưa ra những đối chất với Tổng Giám đốc Petrolimex và yêu cầu giải thích rõ xăng lỗ bao nhiêu, dầu lỗ bao nhiêu? Tuy nhiên, vị lãnh đạo này đã không thể làm rõ được vấn đề.

Trước vấn đề trên, Bộ trưởng Huệ đã đưa ra khẳng định rằng “Doanh nghiệp mà không tách lỗ đối với từng mặt hàng là không thể chấp nhận được bởi trong hạch toán kinh doanh không bao giờ hạch toán cụm sản phẩm như vậy. Không hiểu vấn đề quản trị của Petrolimex thế nào?”.

“Việc giảm giá xăng là có cơ sở, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm cá nhân về vấn đề này", Bộ trưởng Huệ quả quyết.
"Bộ Tài chính luôn theo sát và không bỏ qua doanh nghiệp nào cả. Nếu cách điều hành của chúng tôi gây thiệt hại cho doanh nghiệp chúng tôi chịu trách nhiệm và bồi thường. Những vấn đề do Nhà nước điều hành khách quan dẫn đến tình trạng thua lỗ của doanh nghiệp, Nhà nước sẽ hoàn toàn có trách nhiệm để bù đắp, nhưng bù đắp những chi phí hợp lý chứ không thể nào đi gánh những khoản bất hợp lý của thị trường” - Bộ trưởng Huệ khẳng định.
Cùng với khẳng định này Bộ trưởng Huệ cũng đưa ra tuyên bố khá cương quyết: “Nếu doanh nghiệp nào thấy lỗ quá không làm được thì rút lui. Kể cả Petrolimex, nếu không làm được chúng tôi sẵn sàng cho giải tán để lập tổng công ty khác. Nhà nước không dọa ai và cũng không ai dọa được nhà nước”.

“Tôi đã có 10 năm làm kiểm toán Nhà nước, trong đó có 5 làm Tổng kiểm toán Nhà nước, nên tôi biết rõ hơn ai hết từng doanh nghiệp như thế nào và cũng thuộc các số liệu lỗ, lãi của doanh nghiệp như lòng bàn tay. Điều này có nghĩa, tôi thừa hiểu các nhà nhập khẩu xăng dầu lỗ hay lãi và sức chịu đựng của họ đến đâu. Vì vậy Bộ đủ sức đề điều hành 11 doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu xăng dầu”, Bộ trưởng Huệ tuyên bố.

“Với tư cách là Bộ trưởng Bộ Tài chính, tôi xin tuyên bố sẽ không cho phép doanh nghiệp nào bỏ việc lưu thông xăng dầu, khó khăn nào cũng có thể giải quyết. Chúng tôi làm việc và điều hành có trách nhiệm, không phải vì 11 doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu xăng dầu, mà vì cả nền kinh tế và hơn 86 triệu người tiêu dùng xăng dầu trên lãnh thổ  này”, Bộ trưởng Huệ, tái khẳng định.

Kết thúc Hội nghị Bộ trưởng Huệ cũng không quên đưa ra những tuyên bố làm yên lòng bao nhiêu người tiêu dùng: “Giá xăng dầu trên thế giới là yếu tố nhạy cảm, biến động hàng giờ dưới những tác động của rất nhiều yếu tố về kinh tế - chính trị và xã hội. Mỗi một sự tăng, giảm của giá xăng dầu đều có tác động trực tiếp tới giá cả của hầu hết các sản phẩm, dịch vụ trong nền kinh tế và điều đó sẽ ảnh hưởng ngay tới lợi ích của các đối tượng”.

“Từ nay đến cuối năm, tôi cho rằng không thể để giá theo Nghị định 84 được. Trong điều kiện hiện nay cũng không nên tăng giá xăng dầu mà sẽ sử dụng hết cách để bù lỗ cho doanh nghiệp, kể cả bù giá. Chúng ta nên bình tĩnh, Bộ sẽ làm hết sức mình. Để nắm rõ hoạt động lỗ, lãi của các doanh nghiệp xăng dầu, từ đó có cơ sở minh bạch trong điều chỉnh giá, Bộ Tài chính đã cử ba đoàn kiểm tra chịu trách nhiệm về vấn đề này”. Bộ trưởng Huệ tuyên bố.

CÔNG – XĂNG – TÀI DIỄN NGHĨA

La Trung Nghệ Quán
Hồi Một:
Tung hỏa mù Công – Xăng kêu lỗ
Giở hóa đơn Thượng thư Huệ nói lời
Lại nói, nước Việt, năm thứ sáu mươi sáu, mùa thu, bỗng dưng lạm phát tăng phi mã, vật giá leo thang, lòng người oán thán. Trong lúc vàng bạc, mỹ kim đua nhau tăng giá, thì chứng khoán liên tục xuống đỏ sàn. Thấy vậy, mấy nhà độc quyền là điện, xăng dầu cũng dâng sớ lên tể tướng cho tăng giá theo. Tình hình nguy cấp quá, tể tướng vội xuống chỉ cho Bộ Công và Bộ Tài cùng nhau hiến kế. Lĩnh ấn tiên phong, tân thượng thư Bộ Tài, họ Vương tên là Đình Huệ, tức tốc mở hội đàm cho mời Bộ Công và các đại gia đến tham vấn. Đoàn của Bộ Công do Phó Thượng thư dẫn đầu, đó là một vị mặt mũi phương phi, trán hói, mặt đỏ như ba quả táo chồng lên nhau. Hỏi ra mới biết, họ Nguyễn tên là Cẩm Tú, vốn là quý tử của một cựu Phó tể tướng đã hồi hưu. Oái ăm thay họ Nguyễn cũng là đồng hương An Tĩnh với Thượng thư họ Vương. Theo sau phó thượng thư Cẩm Tú là một đoàn lốc nhốc dăm bảy tên tùy tùng. Tiền hô hậu ủng theo họ là các đại gia độc quyền trong ngành xăng dầu. Ai nấy oai phong lẫm lẫm, khí thế như chực nuốt cả sao Đẩu, sao Ngưu.
An tọa. Phân ngôi chủ khách xong, Thượng thư Bộ Tài chưa dứt lời phi lộ, phó thượng thư Bộ Công, Cẩm Tú đã khai chiến trước. Không thèm rào trước, đón sau, ngài đã hướng thần công về phía Bộ Công nã pháo. Ngài tham chiếu Chỉ dụ 84 để kết tội Bộ Tài phạm luật, khiến cho doanh nghiệp điêu đứng, lỗ vốn vì kiểu điều hành “bịt mắt bắt dê”. Ngài cảnh báo nguy cơ vỡ hệ thống xăng dầu toàn quốc, ngài tiên tri viễn cảnh tối tăm, khi hàng hàng doanh nghiệp cùng rút vốn, bỏ thị trường. Thật là “miệng nhà quan có gang có thép”, không hổ danh dòng dõi trâm anh thế phiệt. Trước khi dứt lời, ngài không quên gửi tối hậu thư cho Vương Thượng thư: “Phải điều hành bằng đầu, chứ đừng điều hành bằng tay chân!”. Họ Nguyễn nói vậy thật chẳng khác gì coi Vương Thượng thư là phường võ biền “đầu óc ngu sy, tứ chi phát triển”! Khi nghe Cẩm Tú nói những lời khiếm nhã trên đây, trong lúc thuộc hạ rất lấy làm tức giận, thì khuôn mặt Vương Thượng thư không hề biến sắc. Ngài vẫn ra vẻ “bạch diện thư sinh” như ngày còn thụ giáo ở Quốc tử giám. Cẩm Tú vừa dứt lời, một thuộc hạ thân tín đã cướp diễn đàn, lên tiếng. Ra vẻ khiêm nhường, y nói: “Mỗ không giỏi, nhưng cũng đã từng lều chõng sang Âu châu, ứng thí giải quốc tế toán chương, thế mà không tài nào hiểu nổi phép tính của Bộ Tài. Lúc doanh nghiệp đang lỗ thì cho giảm giá. Chẳng hay Bộ Tài có làm sao không?” A, thằng oắt con, mày nói thế chẳng phải xem ta là thiểu năng trí tuệ ru? Trong bụng nghĩ vậy, nhưng Vương Thượng thư vẫn điềm nhiên như không, ngài chỉ nhỏ nhẹ: Giỏi toán cũng phải biết thực tế. Mọi người ngơ ngác không hiểu anh chàng xấc xược này ở đâu ra, mãi sau mới biết đó là quan phụ tá Vụ Nội địa thị trường, Bộ Công. Y họ Nguyễn, tên là Lộc An. Nghi ngờ những điều y vừa “nổ”, ngay sau buổi hội đàm, một vị Phó Bảng họ Võ tên là Trí Long đã chặn đường Lộc An hỏi: “Chẳng hay nhà ngươi dự thi quốc tế toán chương năm nào?”. Lộc An trả lời: “ Mỗ ứng thí năm Tuất, 1982”. “Ta là người biết rõ các đội tuyển quốc gia ứng thí quốc tế toán chương. Chắc chắn kỳ thi năm tuất không có tên ngươi”, Phó bảng Trí Long nói như đinh đóng cột. Bị vạch chân tướng, vậy mà Lộc An vẫn ngoan cố: “Xin mời ngài tra lại số sách”. Cũng không phải đợi lâu, ngày hôm sau Khảo thí Bộ Dục đã loan tin khắp kinh thành: Nguyễn Lộc An chưa từng được ứng thí quốc tế toán chương! Đúng là “nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy”. Thật là đáng phỉ nhổ. Một người như vậy thì làm sao bá tánh có thể tin. Không biết sau vụ này Lộc An có còn “an”, còn “lộc’? Hạ hồi phân giải.
Lại nói chuyện tọa đàm tư vấn, sau khi Lộc An huênh hoang, đến lượt các đại gia xăng dầu thi nhau kêu lỗ. Nguyên nhân thua lỗ đều do Bộ Tài điều hành không tốt. Tiếng kêu của họ nghe ai oán đến tận trời xanh. Phó thượng thư Cẩm Tú nhìn Lộc An, các đại gia nhìn Cẩm Tú. Thật là “tam diện nhất ngôn”, không ai bảo ai mà đều chĩa mũi dùi vào Bộ Tài. Tình thế của Vương thượng thư lúc này khác nào trứng để đầu đẳng, chỉ mành treo chuông!
Lúc này Vương Thượng thư mới từ từ lên tiếng. Đầu tiên ngài yêu cầu các đại gia khai rõ từng mặt hàng lỗ lãi bao nhiêu? Các đại gia lúng túng: chúng tôi chỉ tính chung, không phân khai từng thứ. Cử tọa bắt đầu ngạc nhiên: quản trị doanh nghiệp mà thế ru, phỏng có chấp nhận được không? Vương Thượng thư hỏi tiếp: “Tại sao khi các ngươi loan tin cáo bạch để bán cổ phiếu thì nói lãi mỗi năm hơn chín trăm tỷ, mà nay dâng sớ xin tăng giá lại kêu lỗ những hai ngàn tỷ là lẽ làm sao? Các ngươi hoặc là lừa dân để bán cho được cổ phiếu, hoặc là lừa triều đình để lại tăng giá xăng!” Phía Bộ Công và các đại gia nhìn nhau lúng túng, người đưa lý do này, kẻ đưa ra nguyên cớ nọ, làm cử tọa cười đau cả bụng. Đợi cho đối phương cạn lời mà vẫn đuối lý, Vương Thượng thư mới tung nốt đòn hiểm cuối cùng, ngài dẫn số liệu của quan thu thuế cửa khẩu, nước Việt gọi là Hải quan, để chứng minh rằng: cứ mỗi đấu xăng dầu nhập về các đại gia không lỗ mà còn lời trên bảy trăm quan, đó là chưa kể khoản ba trăm quan được triều đình cho gọi là lãi định mức. “Như vậy, các ngươi lãi trên một ngàn quan một đấu xăng dầu, cớ sao dám nói lỗ!”. Bọn Cẩm Tú, Lộc An, cùng các đại gia lại hùa nhau lên tiếng, chẳng còn tôn ti trật tự là gì. Lúc này thì hỗn loạn như ngoài chợ. Đến nỗi Vương Thượng thư cũng phải nghiêm sắc mặt nhắc nhở: “Các ngươi nên nhớ chủ nhà hôm nay là Bộ Tài”, bọn họ mới chịu vãn hồi trật tự. Chung cuộc bọn Cẩm Tú đòi trả việc định giá cho các đại gia, như Chỉ dụ 84 quy định, Bộ Tài không được can thiệp! Lúc này Vương Thượng thư được một số nhân sỹ giúp sức đã vạch rõ chân tướng của họ. Ngài dõng dạc: “Các ngươi có 11 đại gia, nhưng trong đó chỉ ba tên đã chiếm trên chín chục phần trăm thị phần, lại có một tên chiếm tới sáu chục phần trăm. Trao quyền tự quyết cho các ngươi để các ngươi tự tung tự tác, không coi triều đình, không coi dân ra gì nữa, thì giá xăng dầu sẽ lên đến đâu? Dân đen có chịu thấu không?”. Lúc này bọn Cẩm Tú và các đại gia lại giở bổn cũ ra dọa, đó là đòi rút khỏi thị trường. Tức thì Vương Thượng thư thách thức: “Các ngươi, ai muốn rút cứ rút, để người khác kinh doanh. Đừng dọa triều đình!”. Ngài tuyên bố đanh thép: “Ta điều hành giá xăng dầu là vì lợi ích của tám chục triệu con dân nước Việt, quyết không vì lợi ích của mấy đại gia độc quyền!”. Trừ bọn Cẩm Tú, Lộc An và mấy đại gia, cử tọa ai nấy đều lấy làm cảm kích trước khẩu khí của Vương Thượng thư.
Chỉ mấy giờ sau tin tức từ cuộc tọa đàm đã loan ra khắp kinh thành. Nam phụ lão ấu ai nấy đều rất tin tưởng ở tài đức của Vương Thượng thư. Báo chí từ “hữu ngạn” cho đến “tả ngạn” đồng loạt đưa tin, bình phẩm về cuộc khẩu chiến. Ai cũng khen Vương Thượng thư là người can đảm, dám công khai nghênh chiến với một liên minh ma quỷ, mà gần đây người Việt gọi là “Nhóm lợi ích”. Cũng có đôi vị trải chính trường lo ngại cho Vương Thượng thư, không biết ngài có trụ vững được trong quan trường lâu không, hay lại bất đắc chí như họ Chu (Văn An), họ Nguyễn (Nguyễn Trãi) xưa và họ Trần (XB) nay? Có vị văn sỹ còn ví việc làm của Vương chẳng khác gì “bật lửa xem xăng”, nguy cơ bị tẩm xăng không phải là bất khả!
Hình như không quan ngại những lời đàm tiếu, ngay hôm sau Vương Thượng thư đã xuống lệnh lập các đoàn đi thanh tra bốn đại gia xăng dầu. “Ba quân chỉ ngọn cờ đào. Đạo ra Vô tích, đạo vào Lâm tri”. Nghe nói phía Bộ Công và các đại gia cũng lập tức dàn trận, nghênh chiến.
Chưa biết hai bên tham chiến trận này ra sao, đợi hồi sau sẽ rõ.

Thứ Hai, 26 tháng 9, 2011

Đầu tư như Buffet đâu dễ

Tuần rồi tin Steve Jobs thôi làm sếp Apple chiếm lĩnh tin kinh doanh, nên chỉ có ai theo dõi sát sao thị trường chứng khoán mới để ý Warren Buffet bỏ 5 tỉ đô (tiền lẻ) mua cổ phiếu của ngân hàng đang xuống dốc Bank of America.  Đã có nhiều phân tích về vụ này; xin tạm dịch bài viết khá dễ hiểu sau của Bethany McLean trên Slate.com. (Nguồn: http://www.slate.com/id/2302540/)
Chưa đầy một tuần nhưng vụ Warren Buffet dùng 5 tỉ đô của công ty Berkshire Hathaway đầu tư vào Bank of America (BofA) đã được mổ xẻ, phân tích, ca ngợi, và thậm chí chỉ trích.  Đương nhiên chẳng có gì lạ.  Mỗi lời mỗi chữ, nhất cử nhất động của Buffet luôn được soi rọi kỹ càng.  Thiên hạ mê Buffet một phần chỉ vì ông là một trong những người giàu nhất Mỹ.  Nhưng một phần khác là vì thiên hạ nghĩ rằng cách ông làm giàu – thiên tài đầu tư của ông – là điều mà người thường ai cũng bắt chước được.  Ta chỉ cần theo dõi và lắng nghe, thế là ta sẽ nắm được phép màu.
Buffett là một trong những nhà đầu tư giỏi nhất trong lịch sử, và ta có thể học được rất nhiều qua những vụ đầu tư trước đây của ông.  Nhưng trong số những thương vụ gần đây của Buffett, có một số theo một mô hình khác với các khoản đầu tư của ông trong thập niên 70, 80, và 90.  Vụ mua cổ phiếu BofA quả thực là ví dụ điển hình cho thấy tại sao người thường như ta không thể đầu tư giống như Warren Buffett.
Trước hết, Buffett đạt thành công mà nhà đầu tư bình thường có nằm mơ cũng không được.   Thương vụ này bắt đầu bằng một cuộc điện thoại từ trợ lý của Buffett tới văn phòng Tổng giám đốc BofA Brian Moynihan hôm thứ Tư tuần rồi.   Moynihan đương nhiên bốc máy, và Buffett ngỏ ý đầu tư.  Một cổ đông BofA bình thường họa may lắm thì cũng chỉ nói chuyện được với trợ lý của trợ lý cho Brian Moynihan.
Thứ đến, thử xem qua cơ cấu của thương vụ này.  Đây không phải là một khoản đầu tư bình thường mà trong đó nhà đầu tư mua cổ phiếu phổ thông.  Với 5 tỉ đô, Buffet mua được 50.000 cổ phần thuộc loại đặc biệt gọi là “cổ phiếu ưu đãi”, cho ông hưởng cổ tức 6 phần trăm, tức là 300 triệu đô mỗi năm.  Thử làm con toán so sánh như sau.  Cổ đông giữ cổ phần phổ thông của BofA hưởng cố tức trả hàng quý bằng 1 xu mỗi cổ phần.  Nghĩa là nếu giữ 5 tỉ đô cổ phần phổ thông của BofA ở mức giá hiện tại chừng 8 đô /cổ phần, ta được cổ tức chỉ vỏn vẹn 25 triệu đô mỗi năm – chưa bằng một phần mười khoản cổ tức Buffet được hưởng.  (Hồi đầu năm nay, BofA xin phép tăng cổ tức, nhưng bị Quỹ Dự trữ Liên bang từ chối.)
BofA có thể mua lại số cổ phần của Buffett bất cứ lúc nào nhưng phải trả chênh lệch cao hơn 5%.
Công bằng mà nói ta có thể hưởng cổ tức cao hơn nếu mua cổ phiếu ưu đãi của BofA.  Nhưng ta làm sao có được miếng thơm nhất trong vụ này của Buffet; đó là chứng quyền (warrant).  Những chứng quyền này cho Buffet được quyền mua 700 triệu cổ phần BofA ở mức giá 7.14 đô / cổ phần vào bất cứ lúc nào trong vòng 10 năm tới.  Chứng quyền thường được phát hành ở mức giá cao hơn rất nhiều so với giá cổ phiếu của công ty phát hành, nhưng các chứng quyền của Buffet được phát hành ở mức cao hơn chút đỉnh so với giá BofA lúc đóng cửa giao dịch hôm thứ Tư tuần rồi.  Có nhiều cách định giá các chứng quyền này, nhưng phần lớn giới phân tích và quan sát ước tính những chứng quyền của Buffet có giá trị độ chừng 3 tỉ đô.  Phải, BofA biếu không Buffet 3 tỉ đô.   Người thường như ta đừng hòng vớ được món hời như vậy!
Sau cùng, ta không thể đầu tư như Buffet vì khoản đầu tư của ta, không như của ổng, không phải tự thân nó là thương vụ ăn chắc.  Vì Buffet đầu tư, thiên hạ tin theo.  Khi vừa có tin ông đầu tư vào BofA, cổ phiếu này lập tức tăng vọt hơn 25%.  Giá cổ phiếu lúc đóng cửa giao dịch tăng 9%.  Hôm thứ Hai, ngày tăng mạnh của toàn thị trường, giá BofA lúc đóng cửa tăng 20% so với giá trước lúc Buffet mua cổ phiếu hôm Thứ tư tuần rồi.  Vào lúc viết bài này, giá Bofa chừng 8.15 đô / cổ phần, nghĩa là giá trị các chứng quyền của ông đã tăng vọt, chí ít cũng nhờ khoản đầu tư của ông.  Nếu tiền của ta cũng tự sinh ra tiền như vậy cũng hay chứ.
Cú đầu tư vào BofA không phải là lần đầu tiên Buffett thực hiện một thương vụ như vậy.  Một vụ tương tự là lần ông bỏ 5 tỉ đô vào Goldman Sachs lúc cao trào của cuộc khủng hoảng tài chính.  Không phải tình cờ mà thương vụ đó là một cú thắng lớn cho công ty Berkshire Hathaway của Buffett.  Goldman trả cho Berkshire hơn 1 tỉ đô cổ tức – hơn 1 triệu đô mỗi ngày – hồi mùa xuân năm nay, Goldman mua lại số cổ phần của Berkshire Hathaway với giá 5,5 tỉ đô.  (Buffet vẫn còn nắm giữ các chứng quyền mua cổ phần Goldman ở giá 115 đô / cổ phần, vốn có giá trị cao trước khi thị trường tụt dốc và có thể lại có giá trị cao trước khi các chứng quyền này hết hạn vào năm 2013.)  Buffet cũng thương lượng được một vụ mua cổ phần tương tự với General Electric (GE).
Chẳng đáng ngạc nhiên khi thương vụ BofA của Buffet bị chỉ trích tương tự như sau các thương vụ Goldman và GE của ông.   Một phần của sự chỉ trích đó là Buffet trục lợi từ bảo lãnh ngầm của người dân đóng thuế hỗ trợ cho tất cả những định chế được xem là quá lớn nên không thể bị sập tiệm (too-big-to-fail), trong đó có Goldman, GE, và BofA.  Phần khác của sự chỉ trích là Buffet không còn là một nhà đầu tư xuất chúng, chẳng qua ông là một nhà đầu tư hưởng nhiều đặc quyền để thực hiện những vụ mua bán mà người khác không làm được.
Vế thứ nhất của sự chỉ trích là chính đáng – mặc dù chúng ta cũng đã có thể mua cổ phần trong một định chế tài chính rồi hưởng lợi từ bảo lãnh của dân đóng thuế.  Về vế thứ hai của lời chỉ trích, có thể đặt vấn đề cách khác: Buffet giành được quyền hưởng những thương vụ thơm ngon.  Suy cho cùng, khi Warren Buffett đầu tư vào một công ty, ông ban cho công ty đó một đặc ân độc nhất vô nhị: mức tín nhiệm của ông.   Không một nhà đầu tư bình thường nào - nói đúng ra, không một nhà đầu tư nào khác ở bất cứ đâu – có thể làm đựợc như vậy.  Cứ thử nhớ lại chuyện gì đã xảy ra với cổ phiếu BofA sau khi một nhà đầu tư được đề cao tên là Bruce Berkowitz vừa bỏ tiền đầu tư vừa lên tiếng ủng hộ ngân hàng này.  Cổ phiếu này tiếp tục trượt dốc.  Nói cách khác, nếu Buffet có thể trao cho một công ty một thứ mà không nhà đầu tư bình thường nào có thể, thì có lẽ ông nên được tưởng thưởng khác với những nhà đầu tư bình thường.
Còn nếu điều đó không khiến bạn vui hơn, tôi có một gợi ý khác: Mua vài cổ phần của Berkshire Hathaway.

Lãi mẹ đẻ bao nhiêu lãi con?

Trong một entry ngắn, nhà báo Nguyễn Vạn Phú phê rất xác đáng lối viết ẩu trong bài “Tiểu xảo lách lãi suất” (Người lao động, 21/9/2011).   Vì blog NVP không có chỗ cho để còm, nên mình ngứa nghề viết thêm về cách tính lãi suất thực tế.
Khi ta gởi hay vay tiền, tổ chức tài chính sẽ báo lãi suất hàng năm (annual percentage rate, APR).   Nhưng APR chỉ là con số trên giấy tờ.  Mức lãi ta thực sự hưởng (nếu gởi tiền) hay thực trả (nếu đi vay) gọi là effective annual rate (EAR), tùy thuộc vào tần suất tính lãi (compounding frequency / interval, n).  Công thức như sau: EAR = (1 + APR/n)n – 1.
Nguyễn Vạn Phú nói rất chính xác: “Với lãi suất huy động 13,8%/năm kỳ hạn 1 ngày, tức là tính lãi suất kép, cứ sau mỗi ngày ghép tiền lãi vào vốn thì lãi suất thật sau 365 ngày chỉ là 14,79%.“  Tính như vầy:  EAR = (1 + 0,138/365)365 – 1 = 0,147946 = 14,7946%.  Cũng có thể dùng máy tính tài chính; ví dụ như với máy Texas Instruments BA II Plus, xài chức năng đổi lãi suất (ICONV), với NOM = 13.8, C/Y = 365, rồi tính EFF = 14.7946.
Như vậy, với một APR nhất định, tần suất tính lãi càng nhiều thì EAR càng cao, nhưng cũng sẽ đụng tới một mức trần nào đó.  Nếu lãi được tính liên tục không ngừng nghỉ, EAR = eAPR – 1, trong đó e là hằng số (= 2,7182818…).  Với APR = 13,8%, lãi suất thực tế tối đa sẽ là EAR = 2,71828180,138 – 1 = 14,7976%, không thể nào “lên tới 15%-16%/năm” như phóng viên viết.
Nguyễn Vạn Phú phê phóng viên tính đại.  Nếu vậy, phóng viên chịu khó học thêm, nhờ người tính giùm, hoặc … đọc blog :) .  Nhưng nếu như phóng viên trích thuật lời của ngân hàng thì nguy hiểm hơn.  Ai mà dám gởi tiền vô một ngân hàng không biết tính lãi suất thực tế.
Nói thêm một chút.  Ngân hàng cũng có thể vận dụng cách tính ngược từ EAR sang APR cho mục đích tiếp thị, với APR = n(1 + EAR)1/n – 1.  Ví dụ, nếu ngân hàng cho vay và muốn hưởng 18%/năm thì không cần báo giá đó, nếu tính lãi nhiều hơn một lần mỗi năm.  Nếu tính lãi hàng tuần, lãi suất niêm yết chỉ là: APR = 52(1 + 0,18)1/52 – 1 = 16,58%. (Trên máy tính, với EFF = 18, và C/Y = 52, tính NOM = 16.5778).  Thoạt nhìn có vẻ rẻ hơn tới 1,42 điểm phần trăm!
Theo lên đông xuống đoài

Marx vẫn sai

Khủng hoảng kinh tế khiến những ý tưởng của Karl Marx lại trở nên hợp thời, nhưng thế giới không nên quên những gì Marx đã nhận định sai.
 
Peter Coy
Minh họa của Andy Martin
Xã hội thường tiến lên nhờ rút kinh nghiệm từ những sai lầm của mình.  Bác sĩ không còn rút hết máu từ bệnh nhân.   Phi công không gắng bay bằng cách buộc cánh vào tay mình.  Chẳng còn ai vẫn còn nghĩ rằng nạn nô lệ là điều hay.  Tuy nhiên, Karl Marx dường như là một ngoại lệ của quy tắc sống và học hỏi.  Những tiên đoán nổi tiếng nhất của Marx đã thất bại; không có chế độ độc tài của giới vô sản, và nhà nước cũng chẳng lụi tàn.  Môn đồ của ông có một số kẻ sát nhân hàng loạt tàn bạo nhất của thế kỷ 20: Lenin, Stalin, Mao, Pol Pot.  Thế nhưng triết gia thích tranh luận và bi quan này dường như vẫn có nhiều người ủng hộ trong mỗi thế hệ mới của những bạo chúa và những kẻ mơ mộng.
Thậm chí ta có thể nói rằng Karl Marx hiếm khi nào có vẻ đúng hơn.  Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay đã làm xuất hiện một lớp người ngưỡng mộ mới ít ai nghĩ tới.  Năm 2009, tờ báo chính thức của Vatican, L’Osservatore Romano, đăng một bài ca tụng lời chẩn đoán của Marx về bất bình đẳng thu nhập; quả là một kiểu tán thành đáng kể, nếu biết rằng Marx tuyên bố tôn giáo là “á phiện của nhân dân”.  Ở Thượng Hải, trung tâm siêu tư bản chủ nghĩa của nước Trung Quốc chỉ có mỗi cái tên là Cộng sản, khán giả đổ tới xem một vở nhạc kịch năm 2010 dựa trên Tư Bản, tác phẩm nổi tiếng nhất của Marx.  Ở Nhật, Tư Bản giờ có cả ấn bản hoạt họa manga.  Năm ngoái, dân Brazil bầu một cựu du kích quân Marxist, Dilma Rousseff, làm tổng thống.
Chuyện Marx trở thành mốt thời thượng chẳng có gì lạ ở thời điểm mà các ngân hàng Châu Âu đang đứng bên bờ vực sụp đổ và tình trạng nghèo đói ở Mỹ đã đạt tới những mức chưa từng thấp trong gần hai thập niên.  Các chính khách biết họ có thể lấy điểm với cử tri của mình bằng cách công kích những nhà tư bản tạo công ăn việc làm như những tên vô lại bẩn thỉu.
Nhưng điều đáng ngạc nhiên là thế này.  Ta không cần mặc áo Che Guevara đi ngủ hay ném đá vào tiệm McDonald mới công nhận rằng tư tưởng của Marx là đáng nghiên cứu, đáng trăn trở, và có thể thậm chí áp dụng cho những thách thức hiện nay của chúng ta.  Suy cho cùng, nhiều nhà tư tưởng tư bản chủ nghĩa vĩ đại cũng đã từng bàn về Marx.  Joseph Schumpeter, bậc thầy về “sự hủy diệt mang tính sáng tạo” (creative destruction) và là anh hùng của nhiều người ủng hộ thị trường tự do, dành bốn chương đầu trong cuốn sách của ông in năm 1942, Capitalism, Socialism and Democracy (Chủ nghĩa Tư bản, Chủ nghĩa Xã hội và Dân chủ), để khám phá Marx Nhà tiên tri, Marx Nhà xã hội học, Marx Nhà kinh tế học, và Marx Nhà thuyết giáo.  Ông viết tiếp với nhận xét rằng Marx đã sai lầm, nhưng ông không thể bỏ qua Marx.
Dù Marx lạc lối về nhiều điều, và dù có ảnh hưởng nguy hại ở những nơi như Liên Xô và Trung Quốc, trong khối tác phẩm (đồ sộ) của ông có những bài viết tinh tường sâu sắc đáng ngạc nhiên.  Một trong những luận điểm quan trọng nhất của Marx là chủ nghĩa tư bản vốn dĩ bất ổn.  Ta chỉ cần đọc tít thời sự từ Châu Âu – hiện bị ám ảnh bởi bóng ma Hy Lạp có thể vỡ nợ, một thảm họa ngân hàng, và sự sụp đổ của khu vực đồng tiền chung euro – là đủ thấy ông đúng.  Marx chẩn đoán tính bất ổn của chủ nghĩa tư bản ở thời điểm mà những người cùng thời và những người đi trước ông, như Adam Smith và John Stuart Mill, hầu như mê mẩn với khả năng của chủ nghĩa tư bản trong việc phục vụ những ước muốn của con người.
Gần đây, Marx thu hút sự quan tâm nghiên cứu thấu đáo từ những người như kinh tế gia Nouriel Roubini thuộc Đại học New York, và George Magnus, cố vấn kinh tế cao cấp của Ngân hàng Đầu tư UBS ở London.  Chủ lao động của Magnus, ngân hàng UBS có trụ sở chính ở Thụy Sĩ, là một cột trụ của thế giới tài chính, với văn phòng ở hơn 50 nước và giá trị tài sản hơn 2 ngàn tỉ đô-la.  Tuy nhiên, trong một bài viết ngày 28/8 cho Bloomberg View, Magnus nói rằng “nền kinh tế toàn cầu hiện nay có một số điểm tương đồng kỳ lạ” với những gì Marx đã tiên liệu. (Ông ghi chú đó chỉ là ý kiến cá nhân.)
Thử bàn cụ thể xem sao.  Theo Magnus, Marx tiên đoán rằng các công ty sẽ cần ít công nhân hơn khi họ cải tiến năng suất, tạo ra một “đội quân dự trữ công nghiệp” của những người thất nghiệp; sự tồn tại của đội quân này gây áp lực giảm lương cho những người có việc làm.  Thời buổi này với tỉ lệ thất nghiệp Mỹ vẫn cao hơn 9 phần trăm, khó mà tranh cãi với điều đó.  Hôm 13/9, Cơ quan Điều tra Dân số Mỹ công bố số liệu cho thấy mức thu nhập ở điểm giữa đã giảm từ năm 1973 cho tới 2010 đối với nam công nhân từ 15 tuổi trở lên, có việc làm toàn thời gian quanh năm, sau khi đã tính trượt giá.  Thân phận của người lao động chân tay ở Mỹ vẫn khác xa với mức lương bèo bọt đủ sống và bóng ma “bất hạnh chồng chất” mà Marx gọi hồn kêu về.  Nhưng cũng chưa phải tương lai tươi sáng.
Marx thích chỉ trích nhà kinh tế học người Pháp Jean-Baptiste Say, người đã lập luận rằng tình trạng thừa thải hàng hóa chung không thể tồn tại bởi vì thị trường luôn khớp cung với cầu.  Marx lập luận rằng tình trạng sản xuất thừa mứa là bản chất cố hữu của chủ nghĩa tư bản vì giai cấp vô sản không được trả lương đủ để mua hàng hóa do giai cấp tư sản sản xuất.   Một lần nữa, gần đây khó mà phản bác lý thuyết đó.  Cách duy nhất mà giới lao động Mỹ có thể duy trì tiêu dùng trong thập niên vừa qua là bằng cách vay mượn quá mức.  Khi thị trường nhà sụp đổ, nhiều người lụn bại vì nợ ngập đầu.  Cơn ác mộng vỡ nợ tiếp sau đó vẫn còn chưa dứt.
Những người ái mộ Marx nhìn nhận tất cả những vấn đề với một thái độ “đã bảo mà” đầy thương hại.  Nhà địa lý David Harvey, 75 tuổi, đã dạy cuốn Tư Bản của Marx trong 40 năm ở những trường bao gồm Đại học Oxford, Đại học Johns Hopkins, và hiện nay tại Trung tâm Cao học thuộc Đại học City University of New York.  Văn phòng của Harvey, cách tòa nhà Empire State Building một con phố, được trang trí bằng một bức chân dung màn lụa vẽ Marx, từ trên tủ sách trừng mắt nhìn xuống.  Cũng như Marx, Harvey tin rằng giới tư sản có khuynh hướng gieo mầm mống cho sự tự hủy diệt.  Theo lập luận của vị giáo sư này, chủ nghĩa tư bản không kiềm chế có xu hướng đưa tới thặng dư vô độ, vì vậy việc hoàn toàn xóa bỏ quản lý điều tiết thực sự có tác hại cho chủ nghĩa tư bản về lâu dài.  “Đảng Cộng hòa đang trên đường hủy diệt chủ nghĩa tư bản,” Harvey nói với giọng thích thú, “và họ có thể làm điều đó tốt hơn tầng lớp lao động.”
Nhưng hượm đã.  Điều mà Marx và các đồ đệ đánh giá thấp là khả năng tự lành bệnh của chủ nghĩa tư bản.  Đó có thể là sai lầm trí tuệ tai hại của ông.  Tuyên ngôn Cộng sản nói rằng khi cách mạng của giai cấp công nhân diễn ra, nó sẽ mang lại giáo dục công cộng miễn phí cho trẻ em và xóa bỏ “lao động trẻ em trong công xưởng như hiện nay”.  Thế nhưng, hóa ra là thế giới không cần đến một cuộc cách mạng vô sản để những cải cách xã hội đó diễn ra; chỉ cần có chủ nghĩa tư bản được khai sáng.
Những nhà Marxist giáo điều thích nói rằng “cơ sở hạ tầng” kinh tế quyết định và kiểm soát “kiến trúc thượng tầng” chính trị xã hội, nhưng điều ngược lại cũng có thể đúng.  Các lãnh tụ chính trị đã nhiều lần khắc phục những thặng dư của chủ nghĩa tư bản, như trong chiến dịch chống độc quyền của Tổng thống Teddy Roosevelt, chương trình phục hồi kinh tế New Deal [sau thời kỳ Đại Khủng hoảng 1929-1933, N.D.]  của Tổng thống Franklin Roosevelt, và chương trình cải cách xã hội Great Society [xóa bỏ nghèo đói và bất công chủng tộc, N.D.] của Tổng thống Lyndon Johnson’
Hiện nay, một lần nữa chủ nghĩa tư bản không kiềm chế đang đe dọa phá hoại chính mình.  Những ngân hàng lớn nhất thế giới, yếu về tài chính nhưng mạnh về chính trị, đang siết chặt với người đi vay trong nỗ lực cứu vãn bảng cân đối kế toán của chính họ.  Tương tự như thế, các nước chủ nợ như Trung Quốc và Đức đang cố gắng đổ gánh nặng tái cân đối lên vai các nước con nợ, mặc dù việc siết chặt họ quá mức có nguy cơ dẫn tới một thảm họa kinh tế và tài chính.
Đã đến lúc cần có một đợt bùng nổ khai sáng khác.  Trước kia, John Maynard Keynes của Anh, và Hyman P. Minsky của Mỹ (tác giả cuốn Stabilizing an Unstable Economy [Ổn định Một Nền Kinh tế Bất ổn]) đã giúp ích cho chủ nghĩa tư bản bằng cách chẩn đoán khuynh hướng sa vào khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản và kê toa bốc thuốc để hồi phục.  Các nhà hoạch định chính sách hiện nay càng sớm “nhận ra rằng chúng ta đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng ngàn năm một thuở của chủ nghĩa tư bản,” như Magnus viết, “thì họ càng được trang bị tốt hơn để tìm được lối thoát ra khỏi khủng hoảng.”  Thấu hiểu những khía cạnh Mark đã nhận định đúng là bước đầu tiên để tiến tới bảo đảm rằng những tiên đoán của ông về sự suy tàn của chủ nghĩa tư bản vẫn còn sai lầm.
Coy là trưởng biên tập Kinh tế của Bloomberg Businessweek.
Dịch từ bản tiếng Anh “Marx to Market“, Bloomberg Businessweek, 14/9/2011
Bản tiếng Việt: PVLH, Blog lên đông xuống đoài, http://phamvuluaha.wordpress.com

Phải chăng chủ nghĩa tư bản đã lụi tàn?

Nouriel Roubini
NEW YORK – Sự giao động lớn và điều chỉnh mạnh về giá cổ phiếu hiện đang rúng động các thị trường tài chính toàn cầu là tín hiệu cho thấy hầu hết các nền kinh tế tân tiến đang trên bờ vực của một cuộc suy thoái đáy kép.  Một cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế do lượng nợ vay quá cao và lạm dụng đòn bẩy tài chính của khu vực tư nhân gây ra đã dẫn tới tình trạng ồ ạt dồn gánh nặng đòn bẩy tài chính sang khu vực nhà nước nhằm ngăn chặn cuộc Đại Khủng hoảng phiên bản 2.0.  Nhưng quá trình hồi phục tiếp theo đó vẫn còn èo uột và không đạt yêu cầu ở hầu hết các nền kinh tế tân tiến dù phải nén đau chịu giảm đòn bẩy tài chính. 
Giờ đây, sự kết hợp giá dầu và giá nguyên liệu cao, biến loạn ở Trung Đông, động đất và sóng thần ở Nhật, các cuộc khủng hoảng nợ ở khu vực đồng euro, và những khó khăn tài khóa của Mỹ (giờ lại thêm chuyện bị hạ mức tín dụng) đã làm tăng đáng kể tâm lý sợ rủi ro.  Cỗ máy kinh tế ở Mỹ, khu vực đồng euro, Vương quốc Anh, và Nhật đều đang đứng yên.  Ngay cả những thị trường mới trỗi dậy tăng trưởng nhanh nhất (Trung Quốc, các nước Châu Á mới trỗi dậy, và Mỹ La tinh), và các nền kinh tế định hướng xuất khẩu dựa vào những thị trường này (Đức và Úc giàu tài nguyên) cũng đang bị sút giảm trầm trọng.
Mãi cho tới năm ngoái, giới hoạch định chính sách vẫn luôn có thể vận dụng một phép ảo thuật mới để bơm lại giá tài sản và kích hoạt hồi phục kinh tế.  Biện pháp kích thích bằng tài khóa, các mức lãi suất gần bằng không, hai đợt “nới lỏng cung tiền” (quantitative easing), khoanh nợ khó đòi, và hàng ngàn tỉ đô-la  trong các đợt bảo lãnh và tạo thanh khoản cho các ngân hàng và tổ chức tài chính: giới chức trách đã thử tất tần tật.  Bây giờ họ đã cạn những trò ảo thuật đó.
Chính sách tài khóa hiện nay đang cản bước tăng trưởng kinh tế ở cả khu vực đồng euro lẫn Vương quốc Anh.  Thậm chí ở Mỹ, các chính quyền tiểu bang và địa phương, và hiện nay chính quyền liên bang, đang cắt chi tiêu và giảm các khoản trợ cấp và phúc lợi.  Chẳng bao lâu nữa họ sẽ tăng thuế.
Một đợt bảo lãnh cứu ngân hàng lần nữa là không chấp nhận được về mặt chính trị và không khả thi về mặt kinh tế: hầu hết các chính phủ, đặc biệt là ở Châu Âu, đang quá túng quẫn nên không thể kham nổi các đợt bảo lãnh; rủi ro quốc gia của họ thực sự đang gây quan ngại về thể trạng của những ngân hàng của Châu Âu, vốn đang nắm giữ phần lớn số công trái ngày càng bấp bênh.
Chính sách tiền tệ cũng chẳng giúp ích được gì cho lắm.  Việc nới lỏng cung tiền bị hạn chế bởi mức lạm phát cao hơn chỉ tiêu ở khu vực đồng euro và Vương quốc Anh.  Quỹ Dự trữ Liên bang Mỹ có thể sẽ thực hiện đợt nới lỏng cung tiền lần ba (QE3), nhưng làm như vậy vừa quá ít vừa quá muộn.  Đợt nới lỏng cung tiền lần hai (QE2) trị giá 600 tỉ đô-la và các khoản cắt giảm thuế và trợ cấp phúc lợi trị giá 1 ngàn tỉ đô-la cũng chỉ mang lại tỉ lệ tăng trưởng gần 3% cho một quý.  Sau đó, tăng trưởng giảm xuống mức dưới 1% trong nửa đầu năm 2011.  QE3 sẽ nhỏ hơn nhiều, và sẽ có tác dụng ít hơn trong việc bơm lại giá tài sản và khôi phục tăng trưởng.
Sự giảm giá tiền tệ không phải là một lựa chọn khả thi cho tất cả các nền kinh tế tân tiến: họ đều cần một đồng tiền suy yếu hơn và cán cân thương mại tốt hơn để khôi phục tăng trưởng, nhưng họ không thể được như vậy cùng một lúc.  Bởi vậy việc vào tỉ giá hối đoái để tác động tới cán cân thương mại là một cuộc chơi có kẻ thắng người thua.  Do vậy, những cuộc chiến tranh tiền tệ đang dần hé lộ, với Nhật và Thụy Sĩ đang tham chiến những trận đầu để làm suy yếu tỉ giá của họ.  Chẳng mấy chốc những nước khác sẽ theo chân họ.
Trong khi đó, ở khu vực đồng euro, Ý và Tây Ban Nha hiện đang có nguy cơ đánh mất khả năng tiếp cận thị trường, với các áp lực tài chính hiện nay đang đổ dồn lên Pháp nữa chứ.  Nhưng Ý và Tây Ban Nha cũng đều quá lớn nên không thể để phá sản được, và cũng quá lớn nên không thể được bảo lãnh cứu nguy.  Tạm thời, Ngân hàng Trung ương Châu Âu sẽ mua một số công trái của họ như một cầu nối chuyển tiếp sang Chương trình Bình ổn Tài chính Châu Âu (EFSF) mới của khu vực đồng euro.  Nhưng, nếu Ý và/hoặc Tây Ban Nha đánh mất khả năng tiếp cận thị trường, ngân khoản 440 tỉ euro (627 tỉ đô-la) có thể cạn kiệt cuối năm nay hoặc đầu năm 2012.
Khi đó, trừ khi quỹ tiền EFSF được tăng gấp ba – Đức sẽ phản đối nước đi này – lựa chọn duy nhất còn lại sẽ là việc tái cấu trúc có trình tự nhưng bắt buộc cho các khoản vay của Ý và Tây Ban Nha, như đã diễn ra ở Hy Lạp.  Tiếp theo đó sẽ là việc tái cấu trúc bắt buộc cho các khoản cho vay không có tài sản bảo đảm của các ngân hàng mất khả năng thanh toán.  Vì vậy, dù quá trình giảm đòn bẩy tài chính chưa thực sự diễn ra, các khoản cắt giảm nợ sẽ trở nên cần thiết nếu các nước không thể tăng trưởng hay tiết kiệm hoặc tự gây lạm phát để thoát ra khỏi những khó khăn nợ nần của mình.
Vì thế có vẻ như Karl Marx đã đúng phần nào khi lập luận rằng quá trình toàn cầu hóa, hoạt động trung gian tài chính đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát, và sự tái phân phối thu nhập và của cải từ giới lao động sang giới tư bản có thể đưa chủ nghĩa tư bản tới tình trạng tự hủy diệt (mặc dù quan điểm của ông cho rằng chủ nghĩa xã hội sẽ tốt hơn đã tỏ ra sai lầm).  Các công ty đang cắt giảm việc làm bởi vì không có đủ cầu cuối cùng.  Nhưng cắt việc làm sẽ giảm thu nhập của người lao động, tăng sự bất bình đẳng và giảm cầu cuối cùng.
Những cuộc biểu tình của dân chúng gần đây, từ Trung Đông tới Israel và Vương quốc Anh, và tình hình dân chúng ngày càng phẫn uất ở Trung Quốc – và chẳng mấy chốc cũng đến lượt các nền kinh tế tân tiến và các thị trường mới trỗi dậy khác - đều xuất phát từ những vấn đề và tình hình căng thẳng giống nhau: bất bình đẳng, nghèo đói, thất nghiệp, và sự tuyệt vọng ngày càng gia tăng.  Ngay cả các tầng lớp trung lưu của thế giới cũng đang cảm nhận được sức ép của thu nhập giảm dần và cơ hội ít dần.
Để các nền kinh tế định hướng thị trường có thể vận hành như chúng nên và có thể vận hành, chúng ta cần trở lại thế cân bằng đúng mức giữa thị trường và việc cung ứng các hàng hóa công cộng.  Điều đó có nghĩa là tránh xa cả mô hình Anglo-Saxon về kinh tế thị trường thả nổi tự do (laissez-faire) và kinh tế học trọng cung lẫn mô hình Châu Âu lục địa về các nhà nước phúc lợi chấp nhận thâm thủng.  Cả hai mô hình này đều đã hỏng.
Ngày nay, thế cân bằng đúng mức đòi hỏi tạo việc làm một phần thông qua tăng thêm biện pháp kích thích bằng tài khóa dành cho đầu tư cơ sở hạ tầng có hiệu quả.  Thế cân bằng đúng mức cũng đòi hỏi chế độ thuế lũy tiến hơn; thêm  biện pháp kích thích bằng tài khóa ngắn hạn với kỷ cương tài khóa trung hạn và dài hạn; hỗ trợ đối đế của cơ quan quản lý tiền tệ để ngăn chặn những cuộc đổ xô rút tiền có thể làm sụp đổ các ngân hàng; giảm gánh nặng nợ vay cho những hộ gia đình mất khả năng chi trả và những tác nhân kinh tế bị túng quẫn khác; giám sát và quản lý điều tiết nghiêm ngặt hơn đối với hệ thống tài chính không biết kiềm chế; chia tách những ngân hàng quá lớn nên không thể để phá sản và những khối độc quyền nhóm.
Dần dà, những nền kinh tế tân tiến sẽ cần đầu tư vào vốn con người, kỹ năng và các chương trình an sinh xã hội để tăng năng suất và giúp cho người lao động có thể cạnh tranh, trở nên linh hoạt và phát đạt trong một nền kinh tế toàn cầu hóa.  Bằng không – giống như trong thập niên 1930 – sẽ là tình cảnh liên tục chịu đình trệ, khủng hoảng kinh tế, các cuộc chiến tiền tệ và thương mại, những biện pháp kiểm soát dòng vốn, khủng hoảng tài chính, những đợt vỡ nợ quốc gia, và bất ổn lớn về xã hội và chính trị.
Nouriel Roubini is chủ tịch hội đồng quản trị của Roubini Global Economics, Giáo sư Kinh tế tại Trường Kinh doanh Stern, Đại học New York, và là đồng tác giả của cuốn Crisis Economics (Kinh tế học Khủng hoảng).
Nguồn: Project Syndicate, 15/8/2011
Bản tiếng Việt: PVLH, Blog lên đông xuống đoài, http://phamvuluaha.wordpress.com

Thứ Hai, 12 tháng 9, 2011

Phải kiên quyết bảo vệ kinh tế thị trường

Vương Tắc Kha (Trung Quốc)
http://anonymouse.ru:8000/cgi-bin/nph-proxy2.cgi/010110A/uggc:/=2fobkvgia.oybtfcbg.pbz/2011/01/cunv-xvra-dhlrg-onb-ir-xvau-gr-guv.ugzy
Lời người dịch: Những năm gần đây giới trí thức Trung Quốc đã nhiều lần cảnh bảo về hiểm họa nghiêm trọng của sự phát triển chủ nghĩa tư bản thân quen ở nước này: một số ít người lợi dụng quan hệ thân quen với chính quyền để độc quyền thao túng nền kinh tế, làm thiệt hại quyền lợi của đa số nhân dân; các doanh nghiệp nhà nước độc quyền là công cụ để thực hiện sự thao túng đó. Tình trạng liên kết quyền thế với tiền bạc (tức chính quyền với giới tư bản) đang làm mất bản chất xã hội chủ nghĩa của nhà nước Trung Quốc. Dưới đây xin giới thiệu một bài viết của nhà kinh tế nổi tiếng Vương Tắc Kha [1] đăng trên “Đông phương Tảo báo” Trung Quốc số ra ngày 28/10/2010. Mong rằng bài này có thể giúp làm sáng tỏ một số vấn đề trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Hải Hoành (lược dịch)
Là một nhà kinh tế học, tôi đặc biệt tán thưởng câu nói của giáo sư Trương Duy Nghênh “Bảo vệ kinh tế thị trường là trách nhiệm cơ bản của các nhà kinh tế” .
Vương Tắc Kha
Giáo sư (GS) Trương Duy Nghênh [2] là người kiên định bảo vệ kinh tế thị trường. Cá nhân ông đã thực sự có những cống hiến cho công cuộc cải cách thể chế kinh tế định hướng thị trường của Trung Quốc. Tác phẩm mới của GS “Lô-gic của thị trường” tập hợp 16 bài viết của ông từng đăng trên báo chí Trung Quốc và nước ngoài trong một phần tư thế kỷ qua. Theo tôi nghĩ, tư tưởng trung tâm của cuốn sách này chính là câu nói của ông: Bảo vệ kinh tế thị trường.
Tư Mã Thiên và Adam Smith
Ngay từ đầu GS Trương đã nêu rõ: “Kinh tế thị trường là sáng tạo vĩ đại nhất của loài người, là Luật chơi tốt nhất trong các tiến bộ của loài người!”, “Lô-gic cơ bản của kinh tế thị trường là: Nếu ai muốn được hạnh phúc thì người ấy trước hết phải làm cho người khác được hạnh phúc.”
Cơ chế của kinh tế thị trường hiện đại là để “đồng tiền-phiếu bầu” [3] lên tiếng, giỏi thắng kém thua, nâng cao mức độ phúc lợi toàn xã hội.
Nếu bạn muốn giành được nhiều đồng tiền-phiếu bầu thì bạn phải cung cấp cho thị trường các mặt hàng được người ta thích mua, kể cả các mặt hàng có tính dịch vụ như cắt tóc, du lịch. Trước tiên người ta bằng lòng bỏ tiền mua hàng của bạn, dưới tiền đề món hàng ấy đem lại cái tốt cho người ta, tốt hơn so với việc người ta giữ lại trong túi mình số tiền họ cần trả cho việc mua món hàng ấy của bạn. Thứ hai, người ta bằng lòng bỏ tiền mua hàng của bạn chứ không mua hàng của người khác, nguyên nhân là bỏ ra cùng một số tiền như nhau, hàng của bạn đem lại nhiều cái tốt hơn so với hàng của người khác.
So sánh cái tốt tức là so sánh giá trị. Bởi vậy, GS Trương Duy Nghênh nói: “Bản chất của cạnh tranh thị trường là sự cạnh tranh giá trị tạo ra cho người khác”.
Đó chính là ý tưởng “Bàn tay vô hình” mà Adam Smith [4], ông tổ kinh tế học hiện đại khái quát lại trong danh tác Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân sự giàu có của các dân tộc.
Theo giải thích của GS Trương, Adam Smith nói “Trong nền kinh tế thị trường, mỗi người đều theo đuổi lợi ích của mình – ở đây là lợi ích theo nghĩa rộng, kể cả mưu cầu tài sản, cũng có thể mưu cầu thanh danh cho mình – nhưng có một bàn tay vô hình làm cho bạn, trong khi theo đuổi lợi ích của mình thì lại tạo ra một giá trị cho người khác, cái giá trị ấy lớn hơn giá trị mà ý định chủ quan của bạn muốn đóng góp cho xã hội.” GS Trương cho rằng đây chính là điều kỳ diệu của kinh tế thị trường.
GS Trương Duy Nghênh nói một cách quy nạp: “Thị trường là gì? Thị trường là chế độ trong đó xấu hay tốt là do người khác đánh giá chứ không phải do bạn tự đánh giá. Trên thị trường, bất cứ ai không tạo ra giá trị cho người khác thì sẽ không thể có thu nhập. Cho nên bạn phải cố gắng tạo ra giá trị cho người khác.” “Cái nào có giá trị, cái nào không có giá trị, điều đó phải được thử nghiệm trên thị trường, phải do người mua đánh giá.”
Những kẻ phản đối kinh tế thị trường không những hạ thấp ý tưởng “Bàn tay vô hình” của Adam Smith là “chủ nghĩa độc tôn thị trường” mà còn, trên độ cao ý thức hệ, quy nó vào ảnh hưởng của kinh tế học dung tục của giai cấp tư sản phương Tây – nghe thật là sởn tóc gáy.
Thực ra, trong cuốn Sử ký của mình, Tư Mã Thiên, nhà văn và nhà tư tưởng nổi tiếng Trung Quốc thời Tây Hán đã thể hiện rõ ràng ý tưởng sau này Adam Smith khái quát lại thành “bàn tay vô hình”.
Trong Sử Ký, Tư Mã Thiên đã viết một đoạn văn ngắn, đại ý có nghĩa là: Nhờ vào sự trồng trọt của nông dân mà người ta có cái ăn, nhờ thợ sơn tràng mà người ta có gỗ ván để làm đồ đạc, nhờ thợ thủ công làm ra đồ dùng mà người ta được thỏa mãn nhu cầu; nhờ các nhà buôn chở và bán mọi thứ vật dụng đó mà người ta có dịp chọn mua. Lẽ nào lại còn phải cần tới nhà nước ra lệnh dạy bảo dân chúng định kỳ họp chợ để thực hiện những việc nói trên hay sao? Mọi người ai nấy làm việc theo khả năng của mình, gắng sức mình làm, qua đó thỏa mãn nhu cầu của mình. Bởi thế, khi vật giá rẻ thì họ tìm cách mua hàng, khi vật giá đắt họ tìm cách bán hàng. Ai nấy cần cù, vui vẻ làm nghề của mình, ví như nước chảy chỗ trũng, ngày đêm chảy mãi không thôi, chẳng cần ai kêu gọi họ cũng làm, chẳng cần ai tuyển mộ thì dân chúng cũng tự sản xuất ra mọi thứ. Điều ấy hợp quy luật và tự nhiên được chứng minh là đúng.
Đoạn văn nói trên của Tư Mã Thiên thể hiện ý tương hầu như hoàn toàn ăn nhập với cách trình bày “Bàn tay vô hình” nổi tiếng của Adam Smith, ông tổ của kinh tế học hiện đại. Nhưng Tư Mã Thiên của Trung Quốc có trước Adam Smith của Anh Quốc hơn 1800 năm!
Đáng tiếc là từ khi “Bãi truất Bách gia, độc tôn Nho thuật” [5] trở đi, chủ trương dùng đạo đức thay cho pháp trị trong việc cai trị quốc gia đã trở thành giấc mộng của giai cấp đại sĩ phu Trung Quốc. Đây là căn nguyên của bao nhiêu vấn đề tồn tại trong xã hội phong kiến, cũng là nguyên nhân quan trọng làm cho Trung Quốc từ sau đời Đường Tống trở nên lạc hậu. Trên ý nghĩa đó, chúng ta cần “trở lại Tư Mã Thiên”, tôn thờ kinh tế thị trường.
Thị trường bị biến dạng cho nên không hoàn mỹ
GS Trương Duy Nghênh chỉ rõ: “Dĩ nhiên, trong thực tế, thị trường bao giờ cũng không hoàn mỹ mà luôn tồn tại vấn đề này vấn đề nọ. Nguyên nhân chính là ở chỗ môi trường pháp lý mà thị trường dựa vào đó để vận hành thường là không hoàn thiện, hiểu biết của con người có giới hạn, thị trường sẽ chịu sự can nhiễu của các lực lượng chống thị trường, nhất là sự can nhiễu từ các nhóm lợi ích và từ chính quyền.”
Nhân tố “môi trường pháp lý mà thị trường dựa vào đó để vận hành thường là không hoàn thiện” có ảnh hưởng rất rõ ràng đối sự vận hành của kinh tế thị trường. Thí dụ, nếu hiện tượng cân thiếu, hàng sai chủng loại mà không bị trừng phạt thì giao dịch thị trường sẽ không thể bảo đảm tạo ra giá trị cho đối phương. “Môi trường pháp lý thường xuyên không hoàn thiện” còn bao gồm mua tranh bán cướp, vơ vét hàng hóa... đều là hậu quả của sự phá hoại điều kiện tiền đề: giao dịch thị trường phải đem lại lợi ích cho cả hai bên giao dịch.
Chính quyền quấy nhiễu thị trường là nhân tố có ảnh hưởng lớn nhất. Trên thực tế, sự can nhiễu của “môi trường pháp lý không hoàn thiện” và của các nhóm lợi ích đều có thể bao hàm trong sự can nhiễu của chính quyền, bởi lẽ “môi trường pháp lý không hoàn thiện” chính là kết quả công việc của chính quyền; nếu chính quyền hoàn thiện được môi trường pháp lý kinh tế thị trường thì các nhóm lợi ích không thể quấy nhiễu được.
Sau khi khẳng định “Không có chính quyền thì kinh tế không thể phát triển; bản thân chính quyền là một nhu cầu của thị trường”, GS Trương chỉ rõ “Nhưng vấn đề là ở chỗ biện pháp mà chính quyền kiếm được thu nhập thì khác với biện pháp của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp không tạo ra giá trị thì không thể có thu nhập, còn chính quyền thì dù không tạo ra giá trị nhưng vẫn có thu nhập qua biện pháp thu thuế.”
Đây là mấu chốt của vấn đề. GS Trương viết “Cái gọi là cạnh tranh không phải là nói một ngành nghề có nhiều doanh nghiệp, mà là nói chính quyền cho phép tự do làm ngành nghề đó.” Đúng vậy, khi một địa phương nào đấy chỉ có một cửa hàng mằn thắn, xem ra là không có cạnh tranh, nhưng ý nghĩ “người khác cũng có thể mở hiệu mằn thắn” lại là một sức ép cạnh tranh vô hình, nó khiến cho cửa hiệu kia khi nghĩ tới khả năng ấy phải ra sức làm cho cửa hiệu mình có thức ăn ngon, giá rẻ, chứ không được tùy tiện nâng giá vì lý do mình là cửa hiệu duy nhất. Lúc này, nếu chính quyền đặt ra trở ngại bên ngoài tiêu chuẩn mở cửa hiệu mằn thắn mới, thì sẽ xuất hiện không gian để tham nhũng.
Vụ sữa bẩn Tam Lộc là một bài học đau xót. Có người phê phán đó là do kinh tế thị trường để cho các doanh nghiệp theo đuổi lợi nhuận. Nhưng vì sao ở nhiều nước có cạnh tranh thị trường mạnh hơn Trung Quốc lại không có hiện tượng như vậy? Tam Lộc gây thiệt hại lớn cho người tiêu dùng, họ dựa vào cái gì để thành công trên thị trường? Đó chủ yếu là do thị trường Trung Quốc chưa chuẩn hóa, đặc biệt là chính quyền đã thọc gậy bánh xe.
Thì ra một năm trước khi xảy ra vụ Tam Lộc, dưới sự dàn dựng của Bộ Khoa học kỹ thuật, sữa bột Tam Lộc được tặng “Giải tiến bộ Khoa học kỹ thuật nhà nước hạng nhì”, một giải thưởng rất cao. Với hào quang như thế, sữa Tam Lộc giành được thành công thị trường ở Trung Quốc.
Doanh nghiệp nhà nước là hình thức quan trọng để chính quyền can thiệp thị trường
GS Trương vạch ra: chính quyền can thiệp thị trường làm cho thị trường không phát triển tốt; lẽ ra việc chính quyền nên làm là bảo vệ quyền sở hữu tài sản, đẩy mạnh cạnh tranh. GS viết: bất cứ biện pháp nào hạn chế cạnh tranh đều chỉ có lợi cho một số ít người. Việc điều động bố trí tài nguyên chỉ có hai cách: hoặc theo thị trường, hoặc theo đặc quyền. Nếu không theo thị trường thì nhất định là theo đặc quyền. Bất cứ biện pháp nào cố ý hạn định giá cả, hạn chế cạnh tranh, cuối cùng chỉ có lợi cho một số ít người có đặc quyền.
Doanh nghiệp nhà nước là hình thức quan trọng để nhà nước can thiệp thị trường, kể cả nhiều đặc quyền miễn phí chiếm dùng tài nguyên nhà nước.
Mới đây Ủy ban Phát triển Cải cách Nhà nước nói: “Mùa đông năm nay việc cung ứng khí đốt chịu nhiều sức ép, Tập đoàn Dầu khí Trung Quốc bị lỗ nặng.” Loại tiếng nói tạo dư luận cho một đợt tăng giá mới này lập tức bị quần chúng nhân dân phê bình. Họ nói: Tập đoàn Dầu khí Trung Quốc rõ ràng là tập đoàn kiếm tiền nhiều nhất trên thế giới, nắm độc quyền vững chắc nhất, thế mà ngày nào cũng kêu lỗ, đó chẳng qua là họ muốn kiếm thêm lợi nhuận lấy từ nhân dân cả nước mà thôi.
Vài năm gần đây, một quan chức nhà nước tự khoe là “trung thần” gọi tập đoàn độc quyền ấy là “Con cả của nước Cộng hòa”. Vị này nói nếu không có “Ba Thùng Dầu” như Tập đoàn Dầu khí Trung Quốc thì chẳng biết nền kinh tế quốc dân nước ta sẽ ra sao đây.
Chúng ta không thể không hỏi: Những mỏ dầu và nhà máy lọc dầu được xây dựng bằng vốn đầu tư lấy từ mấy chục năm tiền thuế của hơn 1 tỷ dân ta đã trở thành tài sản riêng của vị “Con cả nước Cộng hòa” ấy; mấy chục triệu km2 đất đai và vùng biển tài nguyên thiên nhiên của toàn dân hầu như được miễn phí giao cho vị “Con cả nước Cộng hòa” ấy bới tung lên, khai thác với hiệu suất cực thấp... vì sao họ không kiểm điểm trách nhiệm mà ngược lại còn huênh hoang không biết xấu hổ?
Tại các nước lớn trên thế giới, thuế suất đánh vào ngành khai thác dầu đều bằng khoảng mười mấy phần trăm giá dầu. Chỉ có ở Trung Quốc thuế suất loại thuế tài nguyên này chưa tới 1%. Như vậy chẳng phải là hầu như miễn phí giao tài nguyên thiên nhiên cho vị “Con cả nước Cộng hòa” ấy bới tung lên đó sao? Trong tình hình đó tổng giá trị thị trường của doanh nghiệp dầu khí độc quyền Trung Quốc xếp thứ nhất toàn cầu, lợi nhuận ngày một tăng, điều này có gì mà huênh hoang? Họ chẳng đem lại bao nhiêu lợi ích lớn cho đời sống nhân dân, sau này khi tài nguyên khô kiệt sẽ chỉ để lại sự bần cùng và ô nhiễm.
Chính là cái doanh nghiệp độc quyền hiệu suất cực thấp mà lợi nhuận cực cao ấy lại dăm ngày ba bận gây ra sự căng thẳng trong cung cấp dầu khí, không ngại gây thiệt hại cho các doanh nghiệp khác và thúc ép Bộ Tài chính thỉnh thoảng cấp cho họ những khoản “trợ cấp” khổng lồ.
Than ôi! Những vị “Con cả của nước Cộng hòa” có “giá trị thị trường đứng đầu toàn cầu” ấy có hiếu kính cha mẹ của mình – nhà nước – hay không? Có yêu mến hơn một tỷ “em trai em gái” của mình hay không?
Doanh nghiệp quốc doanh là hình thức quan trọng để chính quyền can thiệp thị trường, đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh độc quyền. Nhân dân nước ta cần cù lao động mà không giàu lên được, tài nguyên nước ta bị khai thác với hiệu suất thấp như vậy – trong việc này các doanh nghiệp quốc doanh độc quyền phải chịu trách nhiệm chủ yếu.
Trong một bài báo của mình, ông Hứa Tiểu Niên [6] viết: Trải qua 30 năm cải cách mở cửa, chính quyền trở thành tập đoàn lợi ích đặc biệt trong thị trường. Quyền thế chuyển hóa thành lợi ích kinh tế; một thị trường như vậy nếu phát triển tiếp sẽ rất nguy hiểm – đây là con đường của Suharto ở Indonesia, của Marcos ở Philippines, con đường áp chế quyền lợi của dân chúng và quyền lợi của các doanh nghiệp, đi ngược lại phương hướng cải cách thị trường hóa của Đặng Tiểu Bình.
Đúng như GS Ngô Kính Liên [7] từng chỉ rõ: đặc điểm bản chất nhất của kinh tế thị trường là sự trao đổi tự do, tự chủ; nếu ở bên trên luôn luôn có sự khống chế của lực lượng hành chính, nếu chính phủ có thế lực mạnh lại hoạt động mạnh tới mức chủ đạo trình độ điều phối nguồn tài nguyên kinh tế, thế thì không gọi là kinh tế thị trường nữa mà gọi là chủ nghĩa tư bản thân quen [8] mất rồi!
Cần kiên quyết bảo vệ kinh tế thị trường
GS Trương Duy Nghênh viết tiếp: Vì sao phải bảo vệ kinh tế thị trường? Trước hết, kinh tế thị trường không được những kẻ đã giành được quyền lợi và tầng lớp đặc quyền ưa thích lắm. Kinh tế thị trường là chế độ bình đẳng nhất kể từ khi loài người có sử, nó tạo ra cơ hội cho mỗi người, nó từ chối đặc quyền. Nó có thể làm cho người nghèo trở thành giàu và làm cho người giàu trở thành nghèo. Cho nên kẻ có đặc quyền, hoặc kẻ thích đặc quyền, hoặc kẻ muốn qua đặc quyền mà thu được lợi ích đều không muốn chấp nhận sự thách thức của kinh tế thị trường, vì nền kinh tế đó xung đột với lợi ích của họ. Lịch sử cho thấy, lực lượng lớn nhất chống đối kinh tế thị trường chính là tầng lớp đặc quyền và những kẻ đã giành được quyền lợi.
GS Trương viết, kinh tế thị trường có một nhược điểm: khi bạn được hưởng mặt tốt của nó thì bạn có thể thấy nó toàn là khuyết điểm; khi bạn không có dịp hưởng mặt tốt của nó thì bạn lại chẳng thấy đâu là ưu điểm của nó. Nhất là khi do sự can thiệp không thích đáng của chính quyền hoặc của một cường quyền nào đó làm cho sự vận hành bình thường của kinh tế thị trường bị phá hoại, khiến cho nó thể hiện thành một loại kinh tế thị trường bệnh hoạn, khi ấy người ta thường hay tưởng rằng đó là khiếm khuyết bản thân của nó.
Như vậy, cảm giác sai lầm nói trên của mọi người sẽ rất dễ bị bọn theo chủ nghĩa cơ hội lợi dụng.
Vì rất nhiều người chưa thể nhìn nhận một cách có lý trí các vấn đề xuất hiện trong xã hội, do đó đã tạo cơ hội cho những kẻ quen phỉnh phờ lấy lòng quần chúng. Bọn họ phê bình kinh tế thị trường, không phải vì họ nhất định cho rằng kinh tế thị trường không tốt mà là do họ biết rằng phê bình như thế sẽ được công chúng khen ngợi và ủng hộ. Số người ấy có thể là học giả, cũng có thể là các nhân vật chính trị.
Do nhu cầu chính trị, từ xưa tới nay bao giờ cũng có một số nhà chính trị nói xấu kinh tế thị trường, bởi lẽ họ biết rằng nếu đưa ra các khẩu hiệu và chính sách chống kinh tế thị trường thì họ sẽ được ca ngợi, giành được nhiều phiếu bầu. Các nhà chính trị thích hứa cho mọi người được ăn bữa trưa miễn phí, vì mọi người thích được ăn như thế, nhưng các nhà kinh tế thì lại bảo mọi người là trên thế giới này không bao giờ có bữa trưa miễn phí. Cho nên dù xưa hoặc nay, dù ở Trung Quốc hoặc nước ngoài bao giờ cũng có rất nhiều người phản đối lô-gic của kinh tế học, coi các nhà kinh tế là kẻ thù.”
Đúng vậy, việc các quan chức chính quyền tự giác hoặc không tự giác đổ lỗi cho kinh tế thị trường đã trở thành một hiện tượng phổ biến.
Vì thế chúng ta phải bảo vệ kinh tế thị trường!
V. T. K.
Ghi chú của người dịch:
[1] Wang Ze-ke, GS kinh tế Đại học Trung Sơn, Quảng Châu
[2] Zhang Wei-ying, GS kinh tế Đại học Bắc Kinh
[3] Tiếng Anh là Currency votes: Khi người tiêu dùng chọn mua một sản phẩm trong vô số sản phẩm cùng loại, số tiền họ bỏ ra mua tựa như số phiếu bầu cho sản phẩm đó, giúp nâng cao địa vị của nó (và doanh nghiệp sản xuất nó). Khi ấy đồng tiền được coi là phiếu bầu. Thể hiện rõ nhất trên thị trường chứng khoán: cổ phiếu công ty nào được nhiều người mua tức là công ty đó nhận được nhiều phiếu bầu.
[4] Adam Smith (1723-1790), triết gia, nhà kinh tế người Scotland, một trong những nhà sáng lập kinh tế học cổ điển. Tác phẩm lớn: An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations, 1776.
[5] Gạt bỏ trăm nhà, độc tôn Nho giáo. Thực chất là dựng Nho giáo làm hệ tư tưởng chuyên chế phong kiến phản động, tiêu diệt mọi tư tưởng dân chủ tự do bình đẳng.
[6] Xu Shao-nian, GS kinh tế Học viện Công thương quốc tế Trung Âu, nguyên cố vấn Ngân hàng Thế giới.
[7] Wu Jing-lian, Nghiên cứu viên Trung tâm Phát triển Quốc vụ viện Trung Quốc, Ủy viên thường vụ Chính Hiệp Trung Quốc
[8] Tiếng Anh là Cronycapitalism, Trung Quốc dịch là chủ nghĩa tư bản quyền quý: tình trạng kết hợp tư bản với quyền lực, độc chiếm và độc quyền sử dụng tài sản xã hội, nó ngăn chặn lối thoát (qua sự công bằng về lao động và trí tuệ) của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Từ ngữ này nhằm vào hành vi tham nhũng của tầng lớp quyền quý nắm chính quyền, do quan hệ thân thích, hôn nhân và bạn bè mà giành được lợi ích chính trị, kinh tế; cũng nhằm vào hành vi bao che bênh vực, đề bạt và tưởng thưởng của nhà lãnh đạo chính trị đối với những kẻ trung thành và bám theo mình.