Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013

Which side are you on?

Nguồn:Lãng
Trong cuốn hồi ký "Why Vietnam" của L.A Patti, nguyên là trung tá tình báo của Mỹ tại Đông Dương vào cuối thế chiến thứ hai, một người Mỹ đầu tiên và cũng gần như duy nhất trong chính quyền Mỹ có liên hệ trực tiếp với ông Hồ Chí Minh, có kể lại một khoảnh khắc gây ấn tượng không thể mờ phai trong suốt cuộc đời ông ta. Lúc đó đã hết hy vọng xây dựng được một mối quan hệ đồng minh với Hoa Kỳ, vốn chẳng để ý gì đến xứ Đông Dương xa xôi, lại càng không thể đem đánh đổi một Việt Nam lạc hậu lúc đó chưa là gì trên bản đồ thế giới với tình đồng minh của người Pháp, vốn rất cần cho liên minh Mỹ, Anh trong việc kiềm chế sức mạnh của Liên Xô tại châu Âu sau thế chiến thứ hai. Sự nghiệp dành độc lập của Việt Nam lúc đó thực sự là đơn côi, dù trước đó đã có những nền tảng nhất định trong việc hợp tác với lực lượng OSS của Mỹ (tiền thân của CIA) trong việc kháng Nhật tại Đông Dương (Những tiểu đoàn chủ lực đầu tiên của Việt Nam năm 1945, nhận được sự huấn luyện và viện trợ vũ khí của cơ quan OSS Mỹ từ Côn Minh, TQ). Ngày 30/09/1946, lúc tình thế Đông Dương đã ở bên bờ vực chiến tranh, một cuộc chiến Pháp - Việt chắc chắn sẽ xảy ra, A Patti đến chào từ biệt ông Hồ. Trong những tháng trước đó, ông Hồ đã nhiều lần gửi thư cho tổng thống Mỹ lúc đó là Truman, mong tìm kiếm được sự ủng hộ của Mỹ đối với sự nghiệp dành độc lập của dân tộc mình nhưng vô vọng. Mỹ vào thời điểm ấy đã chọn ủng hộ người Pháp. Chiến tranh bùng nổ sau đó 3 tháng, kết thúc vào năm 54 với người Pháp tại Điện Biên Phủ và cuốn người Mỹ vào một cuộc chiến dằng dai cho đến khi họ phải rút đi vào năm 73.

 Lời tâm sự cuối cùng của ông Hồ với Patti về cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam: "Tôi sẽ buộc phải tìm cho dân tộc mình một đồng minh, nếu đó không phải là Mỹ thì sẽ phải là một đồng minh khác".

Lịch sử xô đẩy ông Hồ đến việc chọn lựa người TQ và người Nga làm đồng minh trong diễn biến của hai cuộc chiến tranh nối tiếp ở Việt Nam. Ông đã không có lựa chọn khác vì không thể để dân tộc đi tới một mình trong cuộc chiến quá chênh lệch về cán cân lực lượng. Ông Hồ đúng khi tìm được độc lập cho dân tộc mình, nhưng những người kế tục ông sau đó phạm nhiều sai lầm, khiến nền độc lập ấy đi kèm với một Việt Nam chậm tiến và nghèo đói kéo dài nhiều năm sau chiến tranh, trong lúc đại bộ phận những nước xung quanh đều mạnh mẽ vươn lên.

Vinh quang trong chiến tranh của Việt Nam, sau 30 năm, trở thành điều nực cười khi so với sự phồn thịnh của các quốc gia châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Indonexia, Malaysia ... và đặc biệt là với một thế lực mạnh mẽ trỗi dậy và đang đe doạ cả Á Châu là Trung Quốc.

Câu chuyện về cuộc chiến và lựa chọn của ông Hồ đã thuộc về thế kỷ trước, thế kỷ 20, một thế kỷ ghi dấu ấn với riêng Việt Nam bởi hai cuộc chiến tranh thảm khốc nối tiếp kéo dài 30 năm, và gần hai thập kỷ nghèo đói kế tiếp sau đó của đất nước. Trong tình thế buộc phải lựa chọn, ông Hồ đã tìm ra cho mình một sự lựa chọn cho đến giờ vẫn còn gây nhiều tranh cãi về tính đúng sai.

Năm 2009, trước một Trung Quốc đang lên và ngày càng trở thành một hiểm hoạ, người Việt Nam lại một lần nữa phải trả lời câu hỏi "Which side are you on?"

Thế giới ngày nay nhìn nhận trực tiếp có lẽ chỉ còn hai siêu cường trên thực tế. Một nước Mỹ hùng mạnh đứng đầu thế giới gần 100 năm qua, quyền lực dù lung lay nhiều trong những năm gần đây nhưng vẫn là cường quốc số 1 hành tinh. Bên cạnh đó, là một Trung Hoa khổng lồ với dân số 1,4 tỷ người, chiếm hơn 1/6 dân số địa cầu, và đang vươn lên ngày một mạnh mẽ về kinh tế cũng như quân sự. Nhiều dự báo cho rằng thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của Trung Quốc, và quốc gia này sẽ thế chân Mỹ thành nền kinh tế đứng đầu thế giới sau 30 hoặc 40 năm nữa. Tất nhiên mọi dự đoán về tương lai đều có thể là sai lầm, nhưng một thực tế không thể phủ nhận là Trung Quốc và Mỹ đã trở thành hai thế lực lớn nhất hành tinh hiện nay, và cuốn các nước khác vào một ván bài có tính lựa chọn khi phải tìm lấy cho mình một bên để đứng.

Câu cửa miệng sáo rỗng dạng "chúng ta muốn làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới" chỉ là lời sáo ngữ không thể lừa ai và cũng chẳng thể dối chính mình. Làm bạn với tất cả, cũng đồng nghĩa với việc chẳng có người bạn nào. Và đó chính là thực trạng của Việt Nam hiện nay: Một quốc gia nhỏ yếu, chậm phát triển, và cô đơn giữa thế giới này khi không có lấy một đồng minh đúng nghĩa (Có thể nhắc đến người Lào chăng? nhưng Lào rồi cũng sẽ rất nhanh không đứng cạnh Việt Nam, khi Trung Quốc đang không ngừng khuyếch trương ảnh hưởng ở đó)

Trong cuộc chơi với người Trung Quốc suốt nhiều năm qua, với Việt Nam, luôn là một cuộc chơi nhẫn nhịn. Trung Quốc giúp Việt Nam nguồn súng đạn trong chiến tranh với một động cơ cũng chẳng trong sáng gì. Giống như ở Triều Tiên, Trung Quốc không muốn ranh giới của thế giới phương Tây tiến sát đến biên giới của họ. Ở Triều Tiên, Trung Quốc trực tiếp tham chiến, chấp nhận trả giá để dựng lên một chính phủ Bắc Triều Tiên trung thành làm phên dậu tại Đông Á cho Trung Quốc trong suốt 70 năm qua. Một bức tranh tương phản tại Triều Tiên, miền Bắc là đệ tử của Trung Quốc, được cai trị bởi một chính thể độc tài toàn trị có tính phản động hàng đầu trên thế giới, một nền chính trị có tính cha truyền con nối, dân chúng chết đói hàng năm vì chưa bao giờ đủ ăn, còn chính thể để tồn tại thì tìm mọi cách đầu tư vào quân đội để duy trì sức cai trị cho chế độ. Nam Triều Tiên, ngược lại, hoà nhập vào thế giới văn minh và hiện là một quốc gia phát triển hàng đầu thế giới, nằm trong nhóm nước phát triển OECD.

Với một động cơ tương tự khi Trung Quốc muốn giúp Việt Nam trong cuộc chiến chống người Pháp và người Mỹ, nhằm có một khoảng đệm an toàn cho biên giới quốc gia của họ với thế giới phương Tây. Trung Quốc cũng muốn Việt Nam phân đôi giống như Nam - Bắc Triều Tiên, để duy trì sát tại biên giới mình một quốc gia nhỏ yếu và vâng lời. Ý thức độc lập thống nhất của người Việt Nam mạnh mẽ hơn ý chí áp đặt của Trung Quốc. Và kết quả là người Việt Nam đã thống nhất đất nước của mình bất chấp những cuộc mặc cả đi đêm của Trung Quốc sau lưng Việt Nam. Năm 1974, ngay khi cuộc chiến Việt Nam sắp chấm dứt, Trung Quốc tận dụng thời cơ hai miền Nam Bắc Việt Nam đánh nhau, chớp nhoáng chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Khi thấy không thể chặn lại được sự thống nhất đất nước của người Việt, Trung Quốc dựng lên chế độ Khơme đỏ tại Campuchia, tìm mọi cách xúi lực lượng này làm tiên phong gây chiến với Việt Nam. Việt Nam phản đòn, chế độ Pôn Pốt nhanh chóng bị đập tan, Trung Quốc công nhiên lộ mặt gây chiến trực tiếp với Việt Nam. Cuộc chiến tranh tàn bạo năm 1979 nổ ra, trước những thiệt hại lớn, Đặng Tiểu Bình buộc phải rút quân về, dù sau đó xung đột biên giới vẫn dai dẳng nổ ra giữa hai bên. Trong cùng thời kỳ, Đặng thành công đổi mới đưa Trung Quốc đi lên, trong lúc lãnh đạo Việt Nam sai lầm trong con đường phát triển khiến đất nước ngày càng kiệt quệ. Năm 1988, khi Việt Nam đang ở điểm đáy của sự tụt hậu và đói nghèo, tận dụng thời cơ Liên Xô là đồng minh duy nhất của Việt Nam lúc đó đang suy yếu đến tận rìa sụp đổ, Đặng xua quân gây cuộc chiến chớp nhoáng tại Trường Sa và chiếm 8 đảo tại quần đảo này của người Việt Nam.

Nhiều chục năm quan hệ với Trung Quốc, là nhiều chục năm cay đắng đối với Việt Nam. Cộng thêm với một lịch sử hàng nghìn năm liên tiếp phải đánh nhau với những đạo quân xâm lược tràn từ Trung Quốc sang. Một lịch sử luôn gắn với những bài học trả bằng xương máu.
Năm 2009, thế giới khủng hoảng, Trung Quốc mạnh mẽ vươn lên với tư cách của một siêu cường. Đối kháng với Trung Quốc thật là một sai lầm, bởi quốc gia này ngày nay quá mạnh. Có lẽ dễ dàng hơn nhiều nếu chọn cách đi bên cạnh Trung Hoa, bởi đối đầu với một quốc gia khổng lồ kề sát bên mình là một lựa chọn rất thiếu khôn ngoan.

Vấn đề là, Trung Quốc không muốn ai đi cạnh bên mình một cách đích thực. Trong lúc rêu rác những lời tuyên ngôn về tôn trọng hoà bình, thì Trung Quốc đầu tư càng lúc càng mạnh cho việc hiện đại hoá quân sự và quốc phòng, đến mức ngày nay đã thành một thế lực đủ sức đe doạ Á Châu. Trong lúc tuyên truyền về tình thân thiện với các quốc gia láng giềng, thì Trung Quốc đồng thời cho vẽ bản đồ chiếm gần trọn lãnh hải của 6 quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Trong lúc nói những lời đường mật về hợp tác cùng phát triển, thì Trung Quốc tìm mọi cách thọc tay vào các nguồn tài nguyên khoáng sản của các nước xung quanh, đổ công nghệ khai thác lạc hậu vào những đất nước này, di dân xâm thực văn hoá, bòn rút tài nguyên và trút vào đó hiểm hoạ môi trường. Trong lúc thế giới đang nóng lên, Trung Quốc cho xây đập chặn hầu hết các con sông dẫn nước qua các quốc gia dưới hạ lưu, bất chấp điều đó gây các thảm hoạ về sinh thái và cuộc sống cho dân cư những quốc gia đó. Và Việt Nam, cay đắng thay lại là nước chịu ảnh hưởng nặng nhất từ những chính sách tàn bạo đó của người Tàu.

Năm 2009, Trung Quốc tiến hành phong toả gần trọn vùng biển Đông của Việt Nam, kiểm soát nó trên thực tế, quét sạch tàu cá của Việt Nam ra khỏi những vùng mà Trung Quốc đơn phương tuyên bố chủ quyền bất chấp luật pháp quốc tế, đồng thời triển khai những chương trình khai thác thăm dò tài nguyên đầy tham lam. Năm 2009, Trung Quốc cho khánh thành một loạt đập ngăn nước tại các nhánh chính của dòng sông Mê Kông chảy trên lãnh thổ Trung Quốc, đẩy các quốc gia dưới hạ lưu như Lào, Thái Lan, Campuchia trước hậu quả nghiêm trọng của việc suy thoái về nông nghiệp và thuỷ sản cũng như môi trường. Hậu quả nghiêm trọng nhất đến với Việt Nam, khi toàn bộ vựa lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long đứng trước mối đe doạ trực tiếp và nghiêm trọng nhất do việc thiếu hụt nước và phù sa từ sông Mê Kong. Nhiều chuyên gia đánh giá, Việt Nam sẽ phải tốn nhiều chục tỷ USD để làm các công trình thuỷ lợi, xây các hồ chứa nước và hệ thống đê ngăn xâm thực nước mặn từ biển để khắc phục những hành vi này của Trung Quốc. Cũng năm 2009, Trung Quốc tìm mọi cách gây sức ép để khai thác các nguồn tài nguyên thô của Việt Nam, đặc biệt là Bauxite tại Tây Nguyên, một kế hoạch đang chịu sự phản đối gay gắt của hầu hết trí thức Việt Nam trước những hậu quả về mặt môi trường, hiệu quả kinh tế không đi đôi với số vốn đầu tư, và đặc biệt là hiểm hoạ về mặt an ninh khi Trung Quốc hiện diện tại mảnh đất chiến lược này.

Việt Nam muốn đi cạnh Trung Quốc hơn ai hết, nếu quốc gia ấy thật sự để cho những nước khác có thể tồn tại cạnh mình và vẫn có cơ hội phát triển đi lên. Nhưng tiếc thay, Trung Quốc đã và đang chỉ chấp nhận cho những nước nhỏ yếu tồn tại cạnh mình với điều kiện thôn tính được lãnh thổ và tài nguyên của những nước đó. Nói cách khác, Trung Quốc để các dân tộc khác tồn tại cạnh mình với điều kiện tước đoạt được tương lai phát triển của những dân tộc ấy, kìm họ trong vòng lạc hậu và đói nghèo để luôn dễ bảo.

Trung Quốc, cả về lịch sử cũng như hiện tại, không cho cơ hội để Việt Nam có thể chọn họ là một đồng minh có thể chấp nhận được.

Người Việt Nam một lần nữa phải chọn cho mình câu trả lời. Để sinh tồn, để có tương lai phát triển, để giữ được chủ quyền lãnh thổ và tránh những hậu quả lâu dài về môi trường cho con cháu mai sau, Việt Nam phải tìm cho mình một lối đi riêng, một chính quyền và một thể chế đáp ứng được đòi hỏi có tính sinh tồn về lợi ích dân tộc và chủ quyền, và những người đồng minh đủ mạnh cho đến khi đất nước phát triển đến một mức đủ để có thể bảo vệ chính mình.
Which side are you on?

Thứ Hai, 7 tháng 10, 2013

Vĩnh biệt một thời đại

Phạm Thị Hoài
Ông là đại diện cuối cùng của một thế hệ mà chúng ta chỉ còn gặp lại trên những trang hồi kí, Thế hệ Vàng của cuộc Cách mạng Giải phóng Dân tộc, trong sáng, lãng mạn, tràn đầy lí tưởng. Qua mỗi thế hệ đến sau, vàng dần biến thành đồng thau và thế hệ hiện đang lãnh đạo đất nước này trông không khác gì đất sét. Người ta thương tiếc ông như rỏ nước mắt cho những phẩm chất đẹp đẽ cũng theo ông về bên kia, để lại bên này một thế giới chân không về giá trị.


Ông là một trong hai nhà lãnh đạo Việt Nam tắm trong một hào quang quốc tế. Người kia đã khuất từ chính xác 44 năm trước. Trong cái bóng của ông, các chính khách đương thời của chúng ta trông không khác các vĩ nhân tỉnh lẻ. Gắn với tên ông, chế độ cộng sản ở đất nước này dường như dễ gây thiện cảm hơn, thậm chí lung linh hơn trong mắt thế giới. Hào quang ấy hẳn cũng đã giúp ông tránh được số phận của nhiều đồng chí và cộng sự thân thiết từng bị nuốt chửng trong chiếc hộp đen của quyền lực đỏ đến nay còn khép kín. Những ngày này, khi hào quang ấy cũng theo ông ra đi, người ta bám vào nó như vầng sáng cuối cùng hắt lại từ dĩ vãng.

Theo ông ra đi là thiên tài quân sự mà huyền thoại đã từ lâu bịt kín mọi ngả nhận thức khác. Thiên tài cầm quân của ông đồng hóa thành thiên tài chống ngoại xâm của Đảng Cộng sản, điều sẽ trở thành biện minh số một cho độc quyền thống trị vĩnh cửu của tập đoàn chính trị mà ông suốt đời trung thành này. Thành tích của vị “Napoléon Đỏ” đã đứng cao hơn núi máu xương chiến trường. Những ngày này hoài niệm đạn bom lên tiếng để hiện thực lặng im, rằng đất nước của vị tướng vĩ đại đã thắng trong chiến tranh và thua trong hòa bình. Gần nửa cuộc đời sau của ông là bằng chứng lặng lẽ của hiện thực ấy.

Theo ông ra đi là những hi vọng tìm một điểm tựa tầm cỡ khai quốc công thần cho một hành trình cứu quốc mới, đưa Việt Nam ra khỏi vòng tròn ma quái của nghèo hèn, lạc hậu, băng hoại, phụ thuộc, chuyên chế và hỗn loạn. Dù chỉ lên tiếng một số lần, có thể là quá thưa thớt và yếu ớt so với mong đợi, và không bao giờ chạm lằn ranh cho phép của thể chế, ông đã là một biểu tượng, một chỗ dựa tinh thần, một uy quyền đạo đức trong một khung cảnh thiếu vắng mọi điểm tựa. Dù chưa từng có một ảnh hưởng quyết định nào với nền chính trị Việt Nam và quá khiêm nhẫn để đột phá và cách tân, ông đã là một địa chỉ của hi vọng cải cách.

Theo ông ra đi là thời đại đã thành cổ điển của những đại tự sự giải phóng dân tộc, chống thực dân, chống đế quốc, chống phong kiến, cách mạng vô sản và chủ nghĩa cộng sản như nấc thang tiến hóa cuối cùng của nhân loại. Một thời đại đầy xung đột, lầm than, bạo lực. Một thời đại đầy ấu trĩ, cuồng tín, u mê. Song cũng đầy những vẻ đẹp của niềm tin giản dị và hùng tráng bởi những nhân cách và tầm vóc phi thường. Thời đại ấy đã cáo chung ngay khi ông còn sống. Bây giờ ông có thể cùng thời đại của mình yên nghỉ. Một cuộc đời dài có thể vắt qua hai thế kỉ, song không một vĩ nhân nào trong lịch sử đóng được dấu ấn lên hai thời đại kề nhau.

Kính cẩn vĩnh biệt ông. Vĩnh biệt một thời đại. Cầu cho thời đại hôm nay không còn cần đến những vị tướng và những chiến trường.

Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả