Thứ Hai, 14 tháng 11, 2011

Có nên sửa đổi chuyện Tấm Cám không ?

Thời gian gần đây, xung quanh chuyện sử câu chuyện tấm cám có rất nhiều y kiến khác nhau. Bản thân tôi khi đọc bài viết : Có nên sửa đổi chuyện Tấm Cám không ? của tác giả Chu Văn Sơn thấy rất tâm đắc nên xin phép đăng lại đây để thỉnh thoảng đọc lại, mong tác giả bài viết cho phép.


Có nên sửa đổi chuyện Tấm Cám không ?

CHU VĂN SƠN
 Dù chưa bao giờ ngừng quan tâm đến văn học dân gian, nhưng tôi không phải chuyên gia văn học dân gian. Nói về nó, tôi không khỏi ái ngại. Song, dư luận về chuyện cổ tích Tấm Cám đang dậy lên trong những ngày này, với nhiều luồng ý kiến khác nhau, đã khiến ít ai có thể làm ngơ được. Theo quan sát của mình, tôi thấy nổi lên ít nhất ba vấn đề: 1) có quyền và có nên sửa đổi bản kể (đặc biệt là cái “kết”) chuyện Tấm Cám hay không? 2) nếu sửa thì sửa theo hướng nào ? 3) có nên dạy chuyện Tấm Cám trong nhà trường hay không ? Tôi xin được lần lượt chia sẻ đôi điều xung quanh những khía cạnh ấy.
1. Trước hết, có một hiện tượng đã trở thành thuộc tính, thành qui luật của văn học dân gian là các văn bản của nó không bao giờ “hoàn kết”, mà luôn luôn vận động. Do lưu hành bằng truyền miệng qua không gian (vùng miền) và thời gian (đời này qua đời khác) mà các bản kể của mỗi tác phẩm văn học dân gian luôn được sáng tạo lại, được sửa đổi, thêm bớt tùy vào nhu cầu văn hóa và dấu ấn văn hóa của con người ở các vùng miền và các thời đại. Vì thế mà ở văn học dân gian mới tồn tại hiện tượng “dị bản”. Mỗi một văn bản được kể lại, được ghi lại (sưu tầm) chỉ là một trong những “điểm dừng chân” trên hành trình bất tận đó thôi. Có thể nói, văn bản Tấm Cám được sử dụng hiện nay trong nhà trường cũng không thể nằm ngoài qui luật chung đó. Việc các nhà sưu tầm thời hiện đại ghi lại, tức định dạng cho nó thành cái văn bản (viết) vẫn lưu hành như hiện nay, rồi đưa vào nhà trường, đã gây cho không ít người một ảo tưởng rằng: đó là bản chính thống/sau chót/cố định. Ảo tưởng này dần lâu lại biến thành một “mặc định”. Tiếc rằng ngay cả các chuyên gia về văn học dân gian cũng không ít người có “mặc định” như vậy. Nếu xem một bản kể nào đó là cố định, bất di bất dịch, không thể sửa đổi nữa, thì vô hình chung đã xóa bỏ luôn tính chất hiện tồn của văn học dân gian. Dân gian đã sáng tạo ra, thì dân gian cũng có quyền sửa đổi để tiếp tục hoàn thiện nó theo nhu cầu văn hóa của mình.
Riêng về chuyện Tấm Cám, thực ra, không phải đến hiện nay mới có chuyện băn khoăn cấn cái về cái kết của nó. Từ nhiều chục năm nay, trong dư luận (mà hình như bắt đầu từ học đường, phụ huynh rồi đến văn nghệ sĩ) đã có những rì rầm về cái kết đó rồi. Theo quan sát của tôi, mối băn khoăn của cộng đồng xung quanh việc này, không chỉ đơn giản là chuyện sửa đổi hay không đối với cái kết của một chuyện cổ tích. Mối bận tâm của cộng đồng chúng ta sâu xa và quan trọng hơn nhiều : ấy là vấn đề tập quán và truyền thống. Mỗi tác phẩm dân gian là một kết tinh về mặt nào đó và ở mức nào đó truyền thống của một cộng đồng. Mà truyền thống cũng không phải nhất thành bất biến. Trái lại, nó vẫn luôn vận động theo chiều hướng tích cực, với hai mặt song hành và tương hỗ : vừa liên tục đào thải những yếu tố không còn phù hợp, vừa liên tục tích hợp những yếu tố tiên tiến để tự làm giàu và làm mới. Có những yếu tố, ở gian đoạn lịch sử này thì phù hợp, cho nên được chấp nhận, thậm chí, được đề cao, đến giai đoạn khác thì không còn phù hợp nữa, cần phải điều chỉnh, đào thải. Tôi cho rằng sự lên tiếng của dư luận đối với cái kết của chuyện Tấm Cám có nguồn gốc sâu xa từ nguyện vọng đó của đông đảo người Việt hiện đại. Một cái kết gắn với cách trả thù tàn khốc của Tấm đối với mẹ con Cám có lẽ là một cái kết phù hợp với tâm lí thường tình của số đông trong những thời cả cộng đồng sôi sục chống ngoại xâm và đấu tranh giai cấp, nó thỏa mãn nhu cầu trừng phạt kẻ thù một cách triệt để, tận độ chăng ? Chúng ta hiểu vì sao, cùng theo một môtip “Lọ lem” phổ biến, nhưng các chuyện tương tự trên thế giới không có cái kết tàn khốc nhưTấm Cám. Còn ở Việt Nam, cái kết tàn khốc đó, trong những giai đoạn trước lại ít gây cấn cái đối với đa số người đọc. Song, chống kẻ thù giai cấp hay chống ngoại xâm cũng chỉ là các tình huống bất thường trong đời sống của mỗi dân tộc. Còn đời sống bình thường của mỗi dân tộc là sống trong hòa bình, hòa hợp. Để có thể sống trong hòa bình và hòa hợp thì không thể nặng lòng thù hận và dung dưỡng những đòn thù tàn khốc. Vì thế mà đã nảy sinh dị ứng với cái kết của chuyện Tấm Cám. Mong muốn sửa đổi cái kết phản ánh nhu cầu loại bỏ khía cạnh tiêu cực đã đeo bám dai dẳng tiềm thức của cộng đồng, nhu cầu ngăn ngừa cái mầm hận thù có thể gieo rắc vào đời sống tinh thần của những thế hệ sau và nhu cầu bồi đắp những gì là tích cực cho truyền thống Việt.
Bởi thế, theo tôi, người Việt hôm nay có quyền kể lại những câu chuyện của mình theo nhu cầu nhân văn của thời đại mới. Việc ấy vừa hợp với qui luật tồn sinh của văn học dân gian vừa hợp với nguyện vọng hoàn thiện những giá trị Việt cho truyền thống của mình.
2. Trước khi bàn việc sửa đổi cái kết của chuyện cổ tích Tấm Cám, có lẽ cần phải hiểu kĩ hơn về thực chất những dị ứng của cộng đồng đối với cái kết. Có thể thấy ngay rằng cộng đồng không dị ứng với việc trừng phạt mẹ con Cám. Cả tư tưởng dân gian Việt, lẫn tinh thần Phật giáo đều thống nhất một phương châm: “khuyến thiện” và “trừng ác” là hai mặt phải tiến hành song song và không thể thiếu nhau. Trong chuyện cổ tích này, mẹ con Cám là hiện thân của cái Ác, chúng đã gây bao tội ác tày đình đối với Tấm, thì không thể không bị trừng phạt. Trừng phạt kẻ thủ ác, kẻ gây nghiệp ác là thi hành công lí và hợp đạo lí. Vậy, cộng đồng băn khoăn dị ứng với điều gì ? Chỉ dị ứng về các khía cạnh này thôi: nhân vật nào đứng ra trừng phạt ? trừng phạt bằng cách nào ? và với mức độ nào ? Cụ thể là dị ứng với nhân vật thực hiện việc trừng phạt là Tấm. Dị ứng với cách trừng phạt là lừa xuống hố, dội nước sôi cho chết. Dị ứng với việc Tấm còn đem xác Cám muối mắm, rồi lại còn gửi mắm làm từ xác em gái cho mẹ ghẻ ăn. Ngần ấy hành động cộng lại khiến cho người ta thấy cách trừng ác của Tấm đã vượt quá mức cần thiết, nó gần như là mất nhân tính. Ở đây, những chuyên gia văn học dân gian có thể bào chữa cho Tấm rằng : đừng hiểu truyện cổ tích theo lối hiện thực thế, cần hiểu truyện cổ tích theo đặc trưng thể loại của nó, rằng Tấm là hiện thân của cái Thiện còn mẹ con Cám là hiện thân của các Ác, đây là cái Ác đang phải trả giá đắt cho những gì nó đã gây ra, và cái Thiện cũng cần ra tay trừ diệt cái Ác một cách triệt để. Vâng, nhưng có thể có những lí do để thấy sự biện bạch đó khó thuyết phục. Thứ nhất, một khi văn bản đã tạo ra mối quan hệ ruột rà máu mủ giữa Tấm và Cám, thì liệu có thể đòi hỏi người đọc chuyện cổ tích xem các nhân vật mẹ kế – con chồng, chị – em ruột ở đây chỉ đơn thuần là hiện thân cho hai lực lượng trong xã hội là Thiện – Ác không thôi được chăng ? Thứ hai, có nhất thiết phải chính Tấm ra tay trừng phạt em gái và mẹ kế của mình như thế không ? Thứ ba, có nhất thiết phải làm tất cả những mức độ man rợ như Tấm đã làm mới là trừng Ác không ? Chúng ta nhớ đến chuyện Thạch Sanh. Thạch Sanh cũng là hiện thân của cái Thiện và Mẹ con Lý Thông cũng là hiện thân của cái Ác. Mẹ con Lý Thông đã gieo rắc tội ác với Thạch Sanh không thua gì mẹ con Cám. Chúng phải bị trừng trị đích đáng. Nhưng cái kết ở đó dễ được đồng tình vì: Thạch Sanh thì rộng lòng tha cho, nhưng trời đất đã không dung tha. Thiên Lôi đã giáng sấm sét giết chết, biến chúng thành con bọ hung. Sự trừng phạt ở đó là thuộc về đạo trời. Cái Ác đáng bị trừng phạt, nhưng cái Thiện cũng cần phải trừng phạt một cách nhân tính chứ không thể mất nhân tính  được. Chuyện Tấm Cám có thể và xứng đáng có một cái kết với sự trừng phạt nhân tính hơn.
Tuy nhiên, không thể ứng xử tùy tiện đối với một bản kể cổ tích, cho dù chỉ là sửa đổi cái kết của nó. Việc sửa một bản kể đã ăn khá sâu vào nhiều thế hệ người đọc là một điều vô cùng phức tạp. Nó khó khăn gấp vạn lần so với việc trùng tu một công trình kiến trúc cổ xưa. Bất cứ một sửa đổi nào, dù nhỏ, nếu không phù hợp với tâm lí tiếp nhận cổ tích nói chung, tâm lí tiếp nhận cổ tích của người Việt nói riêng, chắc chắn sẽ gây hẫng hụt, thậm chí, phản cảm đối với người đọc, người nghe. Trên thực tế, đã có không ít trường hợp sửa đổi rơi vào tình trạng như vá một miếng vải kaki lên một thân áo gấm xưa rồi. Bởi, công việc này, về thực chất, là phải tạo ra được một chỉnh thể mới cho thiên cổ tích vốn đã bắt rễ sâu vào tiềm thức người đọc. Mọi sửa đổi bất chấp đặc trưng thi pháp thể loại đều có nguy cơ phá hỏng chỉnh thể vốn có của thiên truyện. Tuy nhiên, thế giới này cũng đã từng có Anđecxen, người đã tái tạo và sáng tạo ra nhiều thiên cổ tích dựa trên sự thẩm thấu sâu sắc nhuần nhuyễn những đặc trưng tinh vi của thể loại … Cổ tích ở ta, ngoài những yếu tố văn hóa dân gian Việt, còn có sự pha trộn nhiều yếu tố văn hóa của các dân tộc khác cùng các yếu tố tôn giáo như Phật giáo, Đạo giáo. Nếu không tính đến những điều này, việc sửa đổi khó tránh khỏi bất cập. Riêng về cái kết của chuyện Tấm Cám, trong bản kể đang lưu hành phổ biến hiện nay, có thể thấy nó tiềm ẩn ít nhất là ba kiểu kết khác so với cái kết đã có mà xem ra vẫn phù hợp với mạch truyện cũng như phù hợp với tinh thần cổ tích. Nghĩa là, vẫn tuân thủ nghiêm ngặt cái quy luật “ác giả ác báo”, nhưng Tấm không phải trực tiếp “thi hành án” và mẹ con Cám vẫn phải đền tội đích đáng. Thứ nhất, kiểu kết “gậy ông đập lưng ông”: mẹ con Cám lại nghĩ kế hãm hại Tấm, nhưng chính mình lại sập bẫy của mình một cách trớ trêu và thê thảm hơn bất cứ hậu quả nào chúng từng gây ra. Thứ hai, là kiểu kết theo luật trời: mẹ con Cám bị Trời hoặc Phật (Bụt) trừng phạt (biến chúng thành những con vật bẩn thỉu ghê tởm, từa tựa như cái kết chuyện Thạch Sanh). Và, thứ ba, là kiểu kết theo luật đời: mẹ con Cám bị nhà vua trừng phạt theo phép nước. Thời gian gần đây, do sớm băn khoăn về cái kết của chuyện Tấm Cám và thiết tha với việc khai thác các giá trị Việt trong các tích cổ của dân tộc để làm ra những tấm chăn cổ tích, màSentory (17B, Hàm Long, Hà Nội) đã đề xuất một cái kết khá thú vị theo hướng thứ ba này.
Tại sao chúng ta không nhân việc này mà tổ chức một cuộc thi kể lại chuyệnTấm Cám trong toàn quốc nhỉ ? Biết đâu trong số các bản kể mới lại xuất hiện bản ưu việt hơn bản hiện hành. Và biết đâu, nhân cuộc này mà những Anđecxen đang ẩn dật đâu đó tại các chốn quê đất Việt lại có dịp lộ diện đăng quang ? Có thể lắm chứ ! Tại sao không ?
3. Đối với giáo dục, cái được học chính thức thường phải là những gì thật chuẩn. Một văn bản văn chương được chọn để học chính thức cho học sinh thì nên là những văn bản càng ít gây phản ứng, dị ứng càng tốt. Không nên loại bỏ một chuyện cổ tích như Tấm Cám ra khỏi chương trình; người học cần biết đến nó. Nhưng có nhiều cách và nhiều mức độ để biết về nó. Biết ở dạng đọc thêm cũng là một cách, một mức chứ sao ! Kho tàng cổ tích Việt Nam có bao nhiêu tác phẩm hay, đâu riêng gì Tấm Cám. Mà cốt truyện Tấm Cám lại thuộc một môtip cốt truyện khá phổ biến trên thế giới, nét tương đồng với quốc tế thì nhiều, còn những nét độc đáo của cổ tích Việt ở đó đâu có đậm gì hơn những thiên cổ tích khác của ta. Vả chăng, một câu chuyện gây nên những dị ứng ở đông đảo người học, người nghe, mà vẫn dùng để giảng dạy chính thức thì có e lợi bất cập hại không ? Tại sao cứ nhất thiết phải học chính thức chuyện Tấm Cám ? Có thể chuyển nó sang dạng bài để đọc thêm cũng rất tốt chứ sao ! Nhất là khi chuyện lại chưa có được một cái kết đáp ứng tốt nhu cầu nhân văn chính đáng của người đọc hôm nay!
  Hà Nội, 13 – 11 – 2011

Thứ Sáu, 11 tháng 11, 2011

NGUYỄN GIA THIỀU - HỒN THƠ ẤY, CHIẾC PHAO TRÊN CẠN...

Trần Mạnh Hảo

Khi tiếp cận một số tác gia văn học lớn thời phong kiến như Nguyễn Trãi, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương...hầu như giới nghiên cứu văn học "quy phạm" ở nước ta đều dùng khái niệm "trung đại" (trung cổ) là phạm trù văn hóa khu biệt của phương Tây để làm hệ quy chiếu đo đạc, thậm chí còn làm phương pháp luận tiếp cận nữa.

Chính sự lầm lẫn "lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia" trong phương pháp luận ấy đã dẫn đến những đánh giá khá sai lạc về 9 thế kỷ văn học dân tộc thời phong kiến của ông cha ta. Chúng tôi xin vứt bỏ cái kính chiếu yêu trung cổ - kinh viện lầm lạc kia để nhìn nhận các tác gia văn học thời phong kiến của ta dưới một cái nhìn khác, không phụ thuộc vào những định kiến hay những bùa chú, những công cụ tiếp cận gông cùm lỉnh kỉnh ngoại lai nào. Trước hết, chúng tôi xin đề cập tới một đại tác gia: Nguyễn Gia Thiều.

Có lẽ, đại thi hào Nguyễn Du, người kém Nguyễn Gia Thiều 25 tuổi, kém Đoàn Thị Điểm 51 tuổi, là người đã từng mê đắm Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm khúc? Vì vậy, trong Truyện Kiều, chúng ta còn gặp đâu đó hồn lục bát Nguyễn Du phảng phất khói sương, hơi hướng hai kiệt tác trước đó. Ví phỏng như không có Chinh phụ ngâm vàCung oán ngâm khúc, liệu ngày nay chúng ta đã có một tuyệt tác như đang có trên tay: Truyện Kiều không? Nhất là tư tưởng, tình cảm thẩm mỹ của Nguyễn Gia Thiều đã ảnh hưởng đến hồn lục bát Nguyễn Du hơn cả. Đoàn Thị Điểm phải nhờ vào bản Hán văn của Đặng Trần Côn, Nguyễn Du dựa vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân mới thành hồn Việt, tiếng Việt tuyệt vời. Nguyễn Gia Thiều không cần vịn tạm vào cây cầu Hán tự, hay mượn lốt Trung Hoa mà Việt hóa hồn người. Ông viết trực tiếp bằng chữ Nôm, bằng tiếng Việt, một thứ tiếng Việt rất đài các hàn lâm, rất thâm sâu thông tuệ: "Trải vách quế gió vàng hiu hắt", kết hợp với tiếng Việt bình dân, vừa hoa hèn cỏ nội, vừa muối mặn gừng cay, rất đời thường dung dị: "Lau nhau ríu rít cò con cũng tình". Chỉ vỏn vẹn 356 câu thơ song thất lục bát, diễn tả nỗi lòng ai oán của cung nữ mà tỏ bày chuyện nhân tình thế thái, chuyện trời đất, tử sinh của thân phận làm người; Cung oán ngâm khúc quả là một kiệt tác được thể hiện với một nghệ thuật thơ trác việt, xuất chúng, mang tính tư tưởng và thẩm mỹ vào loại cao sang nhất, sâu sắc nhất, mỹ lệ nhất trong kho tàng văn học cổ Việt Nam. 


Nguyễn Gia Thiều mượn tâm trạng cung nữ mà nói chí hướng mình, mượn mình mà đối chất, ỉ ôi ta thán thời thế, mượn thời thế mà vẩn vơ nghĩ ngợi kiếp người, mượn kiếp người mà đối thoại, ầu ơ cùng trời đất, mượn trời đất mà rong ruổi nỗi hư không, mượn hư không mà an ủi, xẻ chia nỗi buồn cung nữ. Chính vì vậy, mỗi câu thơ của bậc thiên tài không chỉ đa ngữ nghĩa, đa tầng đa vỉa như vân gỗ trong cây chò chỉ nghìn năm, mà còn nghĩa ở ngoài nghĩa, chữ ở ngoài chữ, tư tưởng ngoài tư tưởng, như khói sương ngoài lại khói sương. Vì vậy, khi đọc Cung oán ngâm khúc, chúng ta không chỉ phải dùng thị giác, thính giác, tri giác, cảm giác, trực giác mà còn phải huy động cả linh giác, huệ giác, vô giác, thiên địa giác, tổng hợp lại trong mơ hồ THI GIÁC mới có cơ gặp được hồn thơ bách tuế thiên tuế này. Ví dụ như khi đọc câu thơ huyền nhiệm này của Ôn Như hầu: "Cái quay búng sẵn trên trời / Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm" mà chỉ tựa vào "cái quay" luân hồi sắc không, bào ảnh Phật giáo, hoặc tiêu dao vô vi với "người đi đêm" áo gấm Lão Trang kia cũng chưa thấu được bờ bến câu thơ. Chừng như cái huyệt, cái rốn, cái thần của câu thơ mang mang rất đạo này lại nằm trong một động từ "búng" rất bé, rất đời, rất ngẫu nhiên ; như thể trên biển cả vô cùng của thế giới đèn cù hư ảnh, vang lên rất đanh, rất sắc một tiếng con tôm nhân tình chợt búng tanh tách. Và cái quay Phật giáo kia, cái "người đi đêm" kia, hóa ra chỉ là trò búng con quay của đứa trẻ con - tạo hóa có tên là thi ca.

Một cái búng tay tí tẹo thi ca lại có thể mở khép được cái vô cùng, chạm vào cái lênh đênh, như chạm vào cái Không của Phật và cái Vô của Lão, hóa giải nỗi siêu hình bằng nghịch ngợm nhân sinh. Từng câu thơ của bậc thi hào là một khối thống nhất các mâu thuẫn lớn trong quy luật đồng nhất, phản phục, thoắt có, thoắt không, lúc thuỷ, lúc hỏa, vừa có nghĩa lại vừa phản nghĩa, như trong phân tử vật chất đã mang sẵn hạt phản vật chất, trong sự sống nào cũng mang sẵn một mầm chết. Chính vì vậy, dùng phương pháp luận cắt lát của phê bình văn học nặng về xã hội học, phê bình lý trí hay phê bình trực giác, phê bình đạo đức học, ngôn ngữ học, phê bình phân tâm học, phê bình cấu trúc... đối với Cung oán ngâm khúc e rằng chưa thể tất.

Phê bình xã hội học từ bấy nay đã chỉ ra rằng Cung oán ngâm khúc tố cáo chế độ phong kiến tàn bạo, vô nhân đạo, chà đạp tình yêu hạnh phúc con người. Cái chế độ tự nhiên đi bắt nhốt hết con gái đẹp thiên hạ vào một cung cấm như tù chung thân, cho một người sợ nắng sợ gió, hom hem, bệnh hoạn gọi là vua độc quyền hưởng lạc, bảo không ác sao được? Đúng quá. Lại bảo tác phẩm này đầy tính nhân đạo chủ nghĩa. Nhà thơ bênh vực, cảm thông, chia sẻ với nỗi buồn đau, nỗi khát vọng hạnh phúc, nỗi tuyệt vọng về tương lai của hàng trăm cung nữ, nhất định là thương người quá đi chứ. Đúng quá. Lại bảo nghệ thuật của thi phẩm này cao siêu, tuyệt vời. Vì hơn hai trăm năm nay rồi, những áng thơ còn rung động, xúc cảm hàng triệu con tim yêu hồn Việt ngữ ông cha. Lại đúng quá. Mà đúng cả với Chinh phụ ngâmTruyện Kiều và thơ Hồ Xuân Hương nữa.

Phái phê bình phân tâm học thì dùng ông Freud để lý giải tình cảm bị ức chế tình dục của các cung nữ và ngay cả với Nguyễn Gia Thiều, người bị coi là quan hoạn, nên mới tạo ra nỗi khổ, nỗi thèm khát, nỗi hay đầy cảm giác nhục tính của tác phẩm. Nghe ra, cũng có vẻ có lý. Người khác cho rằng, Ôn Như Hầu là đệ tử của Phật, của Lão, trình bày cuộc đời như các cung nữ bị ông vua tạo hóa nhốt chơi, khổ lắm, nhục lắm, mất tự do lắm, nên khuyên ta phải tìm vào cửa Không, cửa Vô mà lánh cho qua bể trần gian. Lại có vẻ đúng. Có người chứng minh Ôn Như hầu yếm thế, chán đời. Có người lại bảo không, bên ngoài thì thở vắn than dài thế thôi, nhưng bên trong còn ham hố lắm, còn yêu đời lắm, còn hy vọng, thèm khát ái ân lắm, cầu mong ơn mưa móc cửu trùng lắm... Phê bình duy mỹ thì bảo: vứt hết những cái đó đi, chỉ lấy cái mỹ lệ văn chương làm tiêu chuẩn thôi, tuyệt đẹp từng câu, từng chữ. Rồi phê bình hình thức, phê bình ngôn ngữ học, phê bình trường ngôn ngữ... đều lôi thiên tài Ôn Như hầu về phía mình như honda ôm giành khách. Trong Cung oán ngâm khúc có tất cả những điều trên và còn nhiều điều hơn nữa, nhưng hình như rồi chẳng có một điều nào cả.

Kìa hàng trăm cung nữ thở than, đau khổ , ám ảnh chuyện mây mưa, hy vọng, tuyệt vọng, rồi níu lấy Phật, lấy Lão, níu cả ông Khổng, thậm chí níu cả ông Táo, ông Tơ như người chết đuối bám cọc. Nghĩa là trong 356 câu thơ song thất lục bát, ta thấy hiện lên cả một thế giới người khổ ải xin tan hòa vào thế giới thần thánh như mực mong hòa trong nước để được sống đời chữ nghĩa. Nhưng rồi quay đi, quay lại, thoắt biến đâu như đèn cù, chẳng còn ai. Cả người đọc thơ bồi hồi, rơi lệ một lúc cũng biến đi. Chỉ còn một mình nhà thơ lặng lẽ trong từng câu chữ, ép hồn vào trang giấy như con bướm khô mà gánh chịu bể khổ kiếp người, gánh chịu cả cái không đâu vô cùng của triết học và tôn giáo. Khiếp quá. Cô đơn quá. Sầu thảm quá.

Khi các cung nữ khóc than khản giọng thì nhà thơ lên tiếng, phủ nỗi buồn vạn cổ lên cỏ cây, lên muôn vật, thậm chí lên cả hậu thế nữa: "Phong trần đến cả sơn khê / Tang thương đến cả hoa kia cỏ này". Câu lục bát hay đến rớm lệ hai thế kỷ thi ca. Chừng như nỗi "phong trần, tang thương " của dân tộc suốt hơn hai trăm năm qua chưa đi hết câu thơ thần diệu này của Ôn Như hầu? Tưởng như chỉ dùng hai câu thơ trên cũng có thể bình được hồn thơ Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, bà Huyện Thanh Quan...thuở ấy. Câu lục bát kia bảo nó là tâm hồn thời đại thì cũng là đệ nhất tâm hồn, bảo nó là tư tưởng thời đại thì cũng là đệ nhất tư tưởng.

Có thể nói, Ôn Như hầu là nhà tư tưởng lớn nhất của thi ca Việt Nam từ trước tới nay. Tất cả tư tưởng của thi hào đã được hồn vía hóa, Việt hoá, thi ca hoá. Thân gỗ của cây triết học, thần học cứng ngắc, khô khan qua cảm hứng thi ca Ôn Như hầu, đã trổ hoa tư tưởng. Thi ca đã biến triết học trong ông thành mỹ học, biến bộ óc tràn đầy sách vở kinh điển, già giặn, siêu hình, siêu việt của ông thành nỗi oe oe chào đời tơ non của trái tim con người. Ngay cả nỗi thống khổ trần gian đi qua thi ca ông cũng thành đẹp thế, cảm động và ngây thơ thế, thương thế: "Thảo nào khi mới chôn nhau / Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra". Câu thơ thuần Việt, không một từ Hán chen vào, dung dị như nhọ nồi rau má mà sâu thăm thẳm những vực cùng đỉnh. Con người ra đời phải chăng vì sợ quá mà cất tiếng khóc đầu tiên? Tiếng khóc ấy như một tiếng thét báo hiệu, báo nguy, báo thức, báo yên và báo động. Khi tư tưởng được phát giác bằng thi hứng, bằng trực cảm, bằng hình ảnh, hình tượng ngôn từ, tư tưởng ấy sống động và bền vững mãi. Trẻ sơ sinh kia sao giống hệt thi ca, vừa ra đời đã cất tiếng khóc? Tiếng khóc ấy phải chăng chính là tiếng hát đẹp nhất của con người trên mặt đất?

Ôi chao, loài người sẽ thế nào đây, nếu mỗi chúng ta vừa ra khỏi bụng mẹ đã hí lên cười hềnh hệch đến méo mó cả phận mình? Cung oán ngâm khúc quả tình đã trở thành một trong những "tiếng khóc ban đầu " của tinh thần văn hóa Việt. Con người sơ sinh - thi ca đã đi qua tiếng khóc thứ nhất dữ dội của mình một cách bi tráng dễ sợ như thế, phỏng còn tiếng khóc nào, nỗi thống khổ nào trên đời dọa nạt được nó? Hơn hai trăm năm nay rồi và nghìn vạn năm nữa, các thế hệ người Việt Nam đều lần lượt dìu nhau đi qua câu thơ này của Nguyễn Gia Thiều, như dìu nhau leo cây cầu kiều bắc qua bể khổ, để suốt những năm ở trọ trên mặt đất không còn lạ gì, ngại gì nước mắt với đau thương, cái mà trong bụng mẹ, thai nhi đã nghiền ngẫm, đã nhấm nháp qua chiếc cuống nhau trần thế. Con người bị vây bủa bởi "tiếng khóc ban đầu" và "nấm cỏ khâu xanh rì", có vẻ như sợ hãi quá, hư vô quá, nhưng mà hay quá, thấm thía quá, đương nhiên quá: "Trăm năm còn có gì đâu / Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì".

Hãi thật, phàm là người, xưa nay có ai vượt qua nấm đất cuối của mình đâu? Bản thân cái chết cũng rất tự nhiên như cái sinh, chẳng có gì đáng sợ. Ôn Như hầu gánh trên đôi vai thi ca: một bên là cái sinh: " tiếng khóc ban đầu", một bên là cái diệt: "nấm cỏ khâu xanh rì" mà đi tiêu dao qua tôn giáo và triết học, đi qua cả nỗi yếm thế cùng nỗi yêu đời, đi vào tận sâu cái Không để xóa cái Không, đi hết cái khiếp sợ để không còn khiếp sợ nữa. Vậy thì cái đau về nỗi người bèo bọt nào có xá gì: "Nghĩ thân phù thế mà đau / Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê". Ơ hay, không đi qua hết mê lầm thì làm sao diệt được mê lầm, không đi qua "sóng cồn" thì sao biết được mình là "con thuyền bào ảnh": "Sóng cồn cửa bể nhấp nhô / Chiếc thuyền bào ảnh lô xô gập ghềnh". Hóa ra, ngay trong cái Không này, thi ca đã tìm thấy cái Hữu từ trong cảm giác, từ cảm xúc thẩm mỹ của nỗi "nhấp nhô", "gập gềnh" của cuộc đời bồng bềnh, nhún nhảy như sóng gió, như võng đưa, như những câu lục bát sâu sắc mang tính tư tưởng cao nhất của thi ca Việt Nam vừa trích dẫn.

Ôn Như Hầu dắt díu một đoàn cung nữ đang chết khát yêu đương vượt qua sa mạc của cõi Mộng hướng vào nguồn suối cõi Thực, qua cõi Tâm lần tìm cõi Vật, cũng là dắt díu chính bản thân mình vượt qua siêu hình, vượt qua biển bờ tôn giáo hư không để oà ra gặp cái Ngã, rằng Tôi là có thật, Tôi là chính của Tôi, không phải bào ảnh, ảo giác, không phải mê lầm : "Giấc Nam Kha khéo bất tình / Bừng con mắt dậy thấy mình tay không". Sau giấc hòe ma mị, bèo bọt , nhà thơ trong lốt cung nữ đã kinh ngạc "thấy mình" dù "tay không", không còn gì cả, không còn hư mê, chỉ còn chính bản thân mình, trả cho vô biên cái hư ngã, chỉ mang theo cái chân ngã mà thành thi ca. Nguyễn Gia Thiều rốt ráo chẳng hư vô chủ nghĩa tí nào cả.

Cứ tưởng ông tuyệt vọng chán đời, lánh đời, ai ngờ ông chỉ núp vào Phật Lão chơi tí như trưa nắng núp nhờ bóng cây, đoạn an ủi các cung nữ một chút rồi lại sà ngay vào kiếp người mà hy vọng, mà tình tứ, mà kén vợ gả chồng cho từ hoa cỏ đến chim muông. Những câu thơ viết về khát vọng lứa đôi hài hòa âm dương vũ trụ hay nhất từ xưa đến nay của thi ca Việt Nam trong Cung oán ngâm khúc, khiến trời đất, cát bụi cũng muốn hoá vợ chồng: "Kìa điểu thú là loài vạn vật / Dẫu vô tri cũng bắt đèo bòng / Có âm dương có vợ chồng / Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê".

Tiếng Việt của ca dao tục ngữ được Nguyễn Gia Thiều nâng cao thành chú rể Việt Nam cưới cô dâu từ ngữ Hán, điển tích Hán, nhập quốc tịch chữ Nôm mà hóa hồn Việt thuần thục đoan trang, bình dân đại chúng mà vẫn yêu kiều thục nữ, vẫn mỹ lệ, tài hoa đến không ngờ. Thành ra Ôn Như hầu chính là ông tơ hồng của văn học, lấy thi ca mà trói buộc chữ duyên tình lên cả vần điệu, lên cả càn khôn. Vượt qua mọi cấm đoán thời phong kiến, cấm đàn bà con gái không được bày tỏ ham muốn xác thịt cả trong đời và trong văn học, Nguyễn Gia Thiều đã ném toàn bộ chăn gối của tinh thần giải phóng phụ nữ vào chính mặt vua chúa, cũng là ném cảnh phòng the vào vẻ đạo mạo giả dối của thời đại, giật tung tấm bình phong, tấm màn che phong kiến xuống tưởng không còn manh giáp: "Chốn phòng không như giục mây mưa", " Khi ấp mận ôm đào gác nguyệt", "Mây mưa mấy giọt chung tình", "Lối đi về ai chẳng chiều ong"... hoặc câu thơ mà phái phân tâm học cũng phải gọi bằng thầy, thơ hay đến nỗi chim chuột cũng phải ngẩn ngơ, mê mẩn: "Bóng gương lấp loáng dưới mành / Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa".

Đối với cái dục, càng diệt, càng ý thức về diệt dục nó càng phát lộ. Thế thì làm sao hàng trăm cung nữ ngày đêm chết khát chờ "ơn mưa móc cửu trùng" có thể hóa các ni cô mà tu thành chính quả trong ngôi chùa "Cung oán"? Thành ra, muốn dắt đoàn cung nữ của mình tới cõi Phật, Nguyễn Gia Thiều phải đưa họ đi hết cõi dục, cõi mà họ đang chết khát, đang bị đày đọa trong địa ngục dục vọng. Đấy là bi kịch đớn đau nhất, tang thương nhất của kiếp người, kiếp làm vợ vua trong thế giới "Cung oán". Để muôn đời, những thân phận cung nữ kia sẽ nhờ buồn thương mà bất tử với thi ca Ôn Như hầu, đặng khóc than về sự trớ trêu của kiếp vợ vua: "Dẫu nhan sắc mấy cũng thừa / Lấy chồng vua lại thành chưa có chồng" (thơ Trần Mạn Hảo).

Thương thay những kiếp hồng nhan bạc phận, dẫu hóa cát bụi vẫn còn thèm khát hạnh phúc chính ra họ đã được hưởng nơi quê mùa, dân dã, điều không thể có trong cung vàng điện ngọc: "Thà rằng cục kịch nhà quê / Dẫu lòng nĩu nịu nguyệt kia hoa này". Chao, thi pháp Ôn Như hầu đâu chỉ rực rỡ những lầu son gác tía. Hồn ông, thơ ông, qua khát khao niềm chăn gốì quê mùa của người cung nữ, đã chớm ánh lên sắc vàng rơm rạ bình dân trong tinh thần "cục kịch nhà quê" rất "oé oẹ", rất nôm na mà vẫn cứ sang trọng, quý phái kiểu "má đào chon chót" ("Giải kết đều oé oẹ làm chi".../ "Song đã cậy má đào chon chót" ).

Có phải Nguyễn Gia Thiều muốn qua lời cung nữ mà ngụ ý, mà bóng gió nói về cuộc trở dạ, cuộc lột xác, thoát thai của văn học Việt Nam từ Hán sang Nôm từng quằn quại mấy thế kỷ từ thời Hàn Thuyên? Ấy là khi dòng thi ca dân tộc bắt đầu tìm cách chia tay với thi pháp "bắt voi bỏ rọ" Hán, tâm thức mực thước Hán cung đình, để bước ra bầu trời tự do, bước sang thi pháp lục bát phóng khoáng, uốn lượn bay bổng Việt, tâm thức nâu sồng Việt bình dân đại chúng, chuyển từ phong cách "phong lưu" qua phong cách "thanh đạm": "Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm / Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon"?

Hàng trăm cung nữ chết sầu chết héo, chôn má đào trong nấm mồ chung "vách quế, tiêu phòng" chỉ vì "miếng cao lương phong lưu" giả hiệu ấy! Đến khi biết nuốt vào "lợm" quá, tanh tưởi quá nhưng không nôn ra được nữa rồi, đành ngồi mơ "mùi hoắc lê" dân dã hoa hèn cỏ nội như mơ cảnh Niết Bàn. Mãi mãi, những cung phi ấy không còn được hưởng hạnh phúc "mùi hoắc lê" nôm na tuyệt vời, để chúng ta, hậu thế được hưởng trọn vẹn 356 câu thơ nôm thuần Việt, hồn Việt "thanh đạm mà ngon" của Ôn Như hầu tiên sinh tặng lại.

Giấu nỗi buồn đau của hàng trăm cung nữ bạc phước, bất hạnh trong gan ruột mình, rồi cất lên tiếng ta thán của nghìn năm cung cấm, tâm hồn Nguyễn Gia Thiều quả là nhức nhói, quặn thắt đến cả trời đất, đành nhờ thi ca chuyển tải xót thương tới muôn vàn mai hậu. Thương thay một thời đại cung nữ, một thời đại song thất lục bát, một thời đại của thi pháp vàng son đã biết cách nghiêng xuống tìm tình duyên nơi "Lau nhau ríu rít cò con" nôm na dân tộc, mà vẫn phải mếu máo cười khóc khi hát khúc ngâm "Cung oán": "Cười nên tiếng khóc hát nên giọng sầu".

Đau quá, không chỉ kêu lên một tiếng cô đơn như tiếng kêu "hàn thái hư" Không Lộ thiền sư xưa, mà là một tiếng kêu căm uất dài tới hai trăm năm có lẻ: "Chống tay ngồi ngẫm sự đời / Muốn kêu một tiếng cho dài kẻo căm". Ôn Như hầu dồn cả nỗi oán hận chế độ phong kiến tàn ác, chà đạp tình yêu hạnh phúc con người của không chỉ nghìn muôn cung nữ vào trọn tâm can mình. Ông muốn đập tan thời đại vô luân đó, muốn đập tan cả nền móng những khổ đau, muốn đập tan ngay cả thân xác nặng nề đang chịu thay cái đau quằn quại của bao cuộc đời, để tinh thần được tự do bay lượn trong vô cùng thế giới: "Dang tay muốn dứt tơ hồng / Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra". Tưởng như hai câu thơ này viết về nỗi niềm dân tộc Việt Nam hôm nay đang muốn “dứt tơ hồng”- (tơ đỏ trói buộc), “muốn đạp tiêu phòng” - (chủ nghĩa) mà ra với lồng lộng nhân loại tự do, nhân loại dân chủ ? Thương thay cho người Việt chúng ta hôm nay hình như vẫn còn bị nhốt trong hai câu thơ đau đáu xa xưa của Ôn Như hầu ?

Có thể cùng với bao cung nữ, thân xác Nguyễn Gia Thiều đã nằm lại trong "tiêu phòng" của chế độ phong kiến, nhưng tinh thần ông, kiệt tác của ông là Cung oán ngâm khúc, thực sự đã đạp đổ tung thời đại đau thương ấy mà bay về phía chúng ta, về phía con người. Ở đó, linh hồn nhà thơ đã thực hiện được giấc mơ của hơn hai trăm năm trước, cùng tiêu dao trong thế giới Lão Trang mà con bướm hoài nghi không còn ngơ ngác giữa mộng và thực nữa :"Thoát trần một gót thiên nhiên / Cái thân ngoại vật là tiên trong đời". Chừng như tất cả chúng ta, thông qua tâm sự nghìn thu cung nữ - Nguyễn Gia Thiều, đều chỉ là những cung nam, cung nữ của vì vua tạo hóa?

Được kiệt tác Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm gợi hứng, Nguyễn Gia Thiều, một đại quý tộc, một đại trí thức, một tâm hồn thơ xuất chúng đã mượn nỗi đau cung nữ mà hát lên tiếng thơ nôm tuyệt diệu, vừa cao siêu đỉnh trời tư tưởng, vừa diễm lệ tận cùng tình cảm cỏ hoa, vừa quý phái hàn lâm, vừa nâu sồng dân dã.Cung oán ngâm khúc quả tình có thể xếp ngang hàng với hai kiệt tác Chinh phụ ngâm và Truyện Kiều, như tam vị nhất thể, như ba đỉnh núi thi ca trong một quần thể tinh thần văn hóa Việt cuối thế kỷ thứ XVIII, đầu thế kỷ thứ XIX còn sừng sững giữa trời, cùng vòi vọi với đỉnh thi ca đơn độc Ức Trai trên dưới bốn trăm năm trước.

Rất tiếc, trong chương trình văn học từ bậc phổ thông đến bậc đại học, kiệt tác Cung oán ngâm khúc chừng như chưa được đánh giá đúng mức? Tất cả chúng ta, như lớp lớp người xưa, kể cả những tay bơi cự phách nhất như "rái tướng" Yết Kiêu và Dã Tượng đời Trần, đều sẽ lần lượt, kẻ trước người sau bị sự "đành hanh" của tạo hóa chòng ghẹo, đến độ phải chết đuối trên mặt đất, như câu thơ hay đến kỳ lạ của Nguyễn Gia Thiều: "Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán / Chết đuối người trên cạn mà chơi". Nhưng may mắn thay, trò con tạo đùa chơi không thể đánh chìm được hồn thơ Cung oán ngâm khúc, dù là sự đánh chìm "trên cạn". Thi phẩm này cứ trôi lênh đênh như một cái phao tâm linh cứu nạn trên mặt đất, sẵn sàng cho những chơi vơi níu bám, ít ra là đối với những tâm hồn đã được mỹ cảm thi ca cứu rỗi. 

T.M.H